trình phẫu thuật. Quyển sách này là một ví dụ điển hình. Tôi viết bản thảo.
Đại diện của tôi bán nó cho một nhà xuất bản. Nhà xuất bản làm hợp đồng
để in và phân phối sách. Quyển sách được bán trong các cửa hàng sách có
thuê lực lượng an ninh xử lý những trường hợp gây rối. Dường như, chỉ có
khối tư nhân là các bên có liên quan trong những giao dịch thị trường
không phức tạp trên, còn chính phủ chỉ đứng ngoài. Nhưng trên thực tế,
chính phủ đã đánh thuế thu nhập của tôi, đánh thuế lên doanh thu bán sách,
thậm chí đánh thuế lên cả tiền lương mà tôi trả cho người chăm sóc các cô
con gái của tôi khi tôi viết sách.
Toàn bộ giao dịch trên được tiến hành thông qua luật bản quyền - một
quy định bảo vệ quyền sở hữu chẳng hạn như quyền sở hữu của những
người viết sách để mưu sinh như chúng tôi. Theo đó, khi tôi đầu tư thời
gian vào việc tạo ra một bản thảo, không một công ty nào có thể ăn cắp
nguyên bản và công bố nó nếu không đền bù thỏa đáng cho tôi. Bất kỳ vị
giáo sư nào muốn sao chép nó để sử dụng trên lớp trước tiên phải trả cho
nhà xuất bản tiền nhuận bút. Thực tế, chính phủ cũng thực hiện quyền
tương tự đối với các loại sản phẩm khác và bổ sung thêm một quyền sở hữu
liên quan, đó là bằng sáng chế. Trường hợp về bằng sáng chế là một ví dụ
rất thú vị nhưng thường không mang tính đặc trưng. Những thành phần
trong Viagra chỉ đáng giá vài xu một viên, nhưng vì Pfizer có bằng sáng
chế Viagra - tấm bằng chứng nhận Pfizer được độc quyền bán sản phẩm
trong 20 năm - nên công ty này bán giá mỗi viên thuốc tới 7 đô-la. Việc
tăng giá mạnh vốn phổ biến với những loại thuốc chữa HIV/AIDS mới và
các sản phẩm cứu người khác thường được mô tả như một kiểu bất công xã
hội của những công ty tham lam chỉ quan tâm đến lợi ích bản thân. Điều gì
sẽ xảy ra nếu các công ty khác được phép bán Viagra hay nếu Pfizer buộc
phải bán thuốc với giá rẻ hơn? Giá sẽ giảm xuống đến điểm rất gần với chi
phí sản xuất. Thực tế, khi bằng sáng chế mất hiệu lực, tức khi những sản
phẩm thay thế có cùng đặc tính trở nên hợp pháp, mức giá sẽ giảm đến 80
hay 90%.