viết bằng thứ tiếng lạ. Tôi không khỏi thở dài trong lòng nhưng nhìn Hải
mệt mỏi nên cũng không dám nói ra.
- Sao đi lâu như vậy? – Tôi hỏi thăm.
- Thưa, ở Phố Hiến không còn người ngoại quốc đến từ phương Tây, tôi
cầm giấy của tiểu thư đi hỏi xung quanh, có người nhận ra mặt chữ lại chỉ
đường cho đến một nhà thương buôn ở phủ lân cận tìm.
Ra vậy. Họ có thể phân biệt được chữ Hán hay chữ La-tinh, nhưng
không phân biệt được đâu là tiếng Anh, tiếng Pháp hay tiếng Bồ Đào Nha...
Tôi nói Hải trở về nghỉ ngơi, ngày mai tôi sẽ tìm anh ta.
Cầm hai cuốn sách vào phòng, tôi ngồi mở coi từng trang. Tuy rằng tôi
học tiếng Anh nhưng đối với tiếng Pháp cũng có sự nhận biết nhất định,
quyển truyền giáo chia làm hai cột, một bên là tiếng Pháp, một bên là tiếng
Việt viết bằng chữ La-tinh nhưng chưa hoàn thiện như ở thời hiện đại.
Riêng quyển chép tay được viết bằng tiếng Bồ Đào Nha, bởi trang đầu tiên
có tên và quê hương của người viết nên tôi dễ dàng nhận ra. Nhìn từng
trang có ghi ngày tháng, tôi đoán đây là quyển nhật ký đi biển của một
thương buôn người Bồ Đào Nha, nhưng tại sao nó lại thất lạc ở trấn Sơn
Nam thì tôi không thể đoán được. Lật ra đến trang giữa thì một tờ giấy gấp
tư rơi ra. Tôi nhặt lên, mở ra xem. Đó là một tấm bản đồ.
Tôi đặt bản đồ xuống bàn, đến đứng bên cửa sổ nhìn ra sân. Lê Quý Đôn
là nhà bác học uyên thâm, đối với những thứ mới lạ ông đều rất hứng thú.
Ông đặc biệt quan tâm đến Nho giáo, Triết học và Địa lý.ông đặc biệt quan
tâm Nho giáo, Triết học và Địa lý. Trí nhớ của tôi về Lê Quý Đôn chỉ dừng
lại ở đó nhưng nhờ vậy tôi mới nảy ra được ý định tiếp cận ông.
Lê Quý Đôn ham học lại là quan mẫu mực, không thể dùng vàng bạc để
nhờ cậy, cho nên tôi mới nghĩ đến dùng một cuốn sách Địa lý bằng tiếng
Anh để tặng ông. Tại sao lại là sách Địa lý? Đơn giản vì ông có hứng thú