nói:
- Tôi và ông đều đã gần năm mươi mà chưa có con cái. Thầy thuốc bảo đàn
bà đến bốn chín tuổi đã tắt kinh thì không còn sinh nở được nữa, đời ông
hãy còn dài, thôi thì cứ cưới thêm một người thiếp nữa, kiếm đứa con để
hương khói sau này. Ông cứ đi một mình, còn tôi xin tình nguyện ở nhà ăn
chay niệm Phật.
Bởi thế Vương Tùng Cổ đến Lâm An cưới thiếp rồi mới tới nhiệm Sở.
Trong nha môn người bạn thân thiết nhất của Vương Tùng Cổ chỉ có Kiều
thị. Ai ngờ Kiều thị lại nhớ người chồng cũ lúc nào cũng canh cánh khôn
nguôi. Thời gian trôi đi rất nhanh, thoáng cái mà đã hai năm. Một hôm
đúng vào tết trung thu vầng trăng tròn vành vạnh sáng vằng vặc trên bầu
trời, Vương Tùng Cổ trong thư phòng, đốt hương ngắm trăng uống trà,
Kiều thị ngồi hầu bên cạnh, ông chợt thấy bóng cây ngô đồng in lên hòn
non bộ Thái Hồ. Trời về đêm se se lạnh, vắng vẻ đìu hiu, tiếng chim hạc cô
đơn lẻ loi trên không trung, tiếng dế rí rỉ kêu không dứt dưới thảm cỏ đẫm
sương đêm. Tuy là dinh quan, song ngay nơi chùa chiền cũng chẳng vắng
vẻ tịch mịch đến nhường này. Nhân lúc thư nhàn Vương Tùng Cổ hỏi Kiều
thị:
- Từ ngày nàng theo ta tới nay mới thoáng mà đã hai năm, song không hiểu
vì sao chưa từng thấy nàng tươi tỉnh bao giờ.
- Phàm người ta vui buồn đều có nguyên do, - Kiều thị nói, - người buồn
cảnh có vui đâu bao giờ. Có gượng gạo mà vui hay buồn cũng không được.
Thấy Kiều thị nói mập mờ, Vương Tùng Cổ bèn nói:
- Ta thấy nàng là người đức hạnh, tài năng, ta cũng không đối xử với nàng
như một người vợ lẽ. Tại sao nàng không nói thực với ta?
- Người đàn bà thất tiết thì còn tốt nỗi gì? - Kiều thị nói.
- Thiếp vô cùng cảm ơn quan đã đối xử tốt với thiếp.
- Thiếp là người Biện Lương phải bước đi bước nữa, thế thì chồng trước
của thiếp còn sống hay đã mất, tại sao lại đến Lâm An ở tại nhà họ Hồ?
- Thế ra người bán thiếp là họ Hồ ư?