Một hôm vào dịp tiết Thanh minh, vợ chồng Trương Học cứu mua sắm lễ
vật cùng An Trú đi tảo mộ. Tới mộ phần, bày lễ vật rồi khấn khứa, Trương
Học Cứu nói với vợ:
- Tôi có câu chuyện muốn nói với bà. Tôi nghĩ rằng An Trú đã trưởng
thành. Năm nay lại có nhiều thuận lợi. Tôi định bảo An Trú đem hài cốt vợ
chồng Lưu Thụy về quê để nhận bác. Ý bà thế nào?
- Ông nói phải lắm. - Vợ Trương nói. - Đây là việc âm đức.
Hai vợ chồng bàn bạc xong xuôi, bảo An Trú:
- Con hãy cúng mộ tổ, đâu đó đến hai ngôi mộ kia vái mấy vái.
- Thưa cha, - An Trú hỏi, - đây là mộ của ai?
Vái xong Học Cứu nói:
- Con đừng hỏi nữa, hóa vàng hương đi rồi về nhà.
- Cha mẹ không cho con biết họ tên người thân đã mất rồi, con sống làm gì
nữa, thà rằng con tự vẫn cho xong.
- Con hãy lại đây cha nói để con hay. Đấy chính là cha mẹ đẻ của con. Còn
ta chỉ là cha mẹ nuôi thôi. Quê con là thôn Lão Nhi cách thành Biện Lương
ba mươi dặm. Bác con là Lưu Thiêm Tường, cha con là Lưu Thiêm Thụy,
cùng với mẹ con là chị Hai Lưu. Cách đây mười lăm năm, lúc ấy con mới
lên ba, vì đói kém, bố mẹ con đã đưa con tới đây nương nhờ. Mẹ con bị lên
một chiếc nhọt ở đầu rồi chết. Cha con do thời tiết thay đổi mắc bệnh cảm
cũng mất theo. Vợ chồng ta đã lo quan tài chôn cất, và coi con như con đẻ.
Không nói ra thì thôi, mà nói ra thì An Trú đến bên phần mộ gào lên khóc
nức nở.
- Con là đứa con bất hiếu. Con không biết cha mẹ đã qua đời.
- Con ơi đừng phiền muộn nữa. - Trương Học Cứu nói. - Con hãy chọn
ngày tốt, đem hài cốt cha mẹ về quê, nhận bác Lưu Thiêm Tường, mai táng
hài cốt cha mẹ. Đừng quên ơn cha mẹ nuôi là được rồi.
- Thưa cha mẹ, công của cha mẹ nuôi còn hơn cả công lao cha mẹ đẻ. Con
đâu dám quên ơn. Nếu trời cho khấm khá con xin kết cỏ ngậm vành báo
đáp.
Hôm sau họ nhờ người chọn ngày tốt, An Trú gói hài cốt cha mẹ, thu xếp
quần áo, tiền ăn đường và bản văn tự hợp đồng thành một gánh, chào vợ