vùng thảo nguyên. Cả về tầm vóc cũng vậy, giống sói Ăcgiala, tức là giống
sói bờm xám, bao giờ cũng to lớn hơn giống sói bình thường ở cao nguyên
vùng ven hồ Ixức-Cun. Còn nếu như một người nào đó trông thấy con sói
Acbara ở gần thì nhất định phải sửng sốt trước đôi mắt xanh trong veo của
nó – một trường hợp hiếm hoi và có thể độc đáo duy nhất. Nó được những
người chăn cừu địa phương đặt cho biệt danh là Acđalư, có nghĩa là ‘u vai
trắng’, nhưng chẳng bao lâu sau, do những qui luật biến đổi của ngôn ngữ,
nó biến thành Abarư rồi Acbara, có nghĩa là ‘vĩ đại’, tuy nhiên không một
ai biết rằng trong việc đó có dấu hiệu của thiên mệnh.
Giờ đây, sau khi Acbara đã yên tâm ít nhiều và sưởi ấm bên thân hình to
lớn của Tastrainar, nó cảm thấy biết ơn sói chồng vì đã chia sẻ nỗi sợ hãi
của nó và do đó đã khiến nó thấy tự tin trở lại, vì vậy nó không cưỡng lại
những cử chỉ vuốt ve kiên nhẫn của sói chồng. Hơn nữa, để đáp lại những
cử chỉ ấy, nó hai lần liếm vào môi sói chồng và trong khi cố chế ngự nỗi
kinh hoàng vẫn còn thỉnh thoảng vẫn làm nó run bần bật, nó hướng mọi ý
nghĩ vào bản thân. Nó lắng nghe lũ sói nhỏ trong thai động đậy một cách
khó hiểu và lo ngại. Nó bằng lòng với những gì hiện có. Nó bằng lòng với
cả hang sói, cả với mùa đông giá lạnh trong núi, cả với ban đêm rét cóng
đang từ từ đến gần.
Khi lắng nghe những biến chuyển xảy ra ngoai ý muốn trong phần bụng
đã sống động của nó, con sói cái Acbara cảm thấy xúc động. Tim nó đập
nhanh hơn và tràn dâng lên lòng dũng cảm, tràn dâng mối quyết tâm nhất
định sẽ bảo vệ, sẽ che chở những sinh vật nhỏ nhoi mà nó đang ấp ủ trong
bụng. Giờ đây, nó sẽ không do dự giao chiến với bất kỳ kẻ nào. Trong
người nó, bản năng duy trì nòi giống – một bản năng vĩ đại của tự nhiên –
bắt đầu lên tiếng. Và ngay lúc đó, một cảm giác thương mến trào lên trong
lòng nó như một làn sóng ấm nóng, nó cảm thấy nhu cầu được vuốt ve,
được sưởi ấm những đứa con tương lai, truyền cho chúng dòng sữa của
mình y hệt như chúng đã nằm bên cạnh. Đó chính là mối tiên cảm hạnh