– Thật tội nghiệp, chúng đói quá đấy mà! Tuy chúng là sói con thật,
nhưng có khác gì trẻ con đâu. Chúng đến chết đói ở nhà anh mất. Anh bắt
chúng làm gì?
– Chúng chết thế nào được kia chứ? – Badarbai mếch lòng. – Lũ thú này
sống dai lắm. Tôi sẽ tìm cách nuôi chúng trong hai ngày rồi đem lên huyện.
Ở trạm thú người ta biết cách chăm sóc chúng. Nếu cấp trên muốn gì thì họ
cũng làm được tất. Cả chó sói họ cũng thuần hoá được rồi bắt biểu diễn
trong rạp xiếc, mà muốn xem xiếc thì mọi người phải trả tiền. Biết đâu lũ
sói con này cũng sẽ làm xiếc thì sao?
Nghe đến đây thì mọi người đều mỉm cười, mặc dù nỗi thương xót của
chị chủ nhà cũng truyền lan sang cả họ. Nhưng đám phụ nữ chạy đến xem
lũ sói con thì bắt đầu thì thầm với nhau.
– Anh Badarbai này – chị Guliumcan nói, – chỗ chúng tôi có những con
cừu non đã tách khỏi bố mẹ chúng nhưng vẫn còn phải cho ăn sữa đấy, hay
là ta đem những chai sữa nuôi cừu non kia đến đây cho lũ sói con này?
– Được đấy! – Badarbai không nhịn được cười. – Cừu sẽ nuôi nấng chó
sói, thật tuyệt! Ta thử xem sao đi!
Và thế là đến giờ phút mà về sau, mỗi khi nhớ lại, ai cũng cảm thấy kinh
hoàng. Nhưng lúc đó mọi người đều vui thích, họ vui thích vì thú dữ lại
được nuôi bằng sữa cừu, vì lũ sói con trông thật cả tin và ngộ nghĩnh, vì
trong ổ sói con đó có một con sói cái mắt xanh, từ nhỏ không ai nghe thấy
nói sói lại có mắt xanh cả, ngay trong truyện cổ tích cũng không có. Họ còn
vui thích vì thấy đứa con trai út còn rất nhỏ của Bôxton – bé Kengies, hớn
hở hẳn lên. Bé hớn hở là phải – trong nhà bỗng nhiên có bốn con thú nhỏ
kia mà. Những người lớn xúc động thấy đứa bé bụ bẫm mới một tuổi rưỡi
kia bập bẹ những tiếng gì đó mà chỉ riêng bé hiểu, thấy đôi mắt xinh của bé
rực sáng lên, thấy bé mải mê đùa nghịch với lũ sói con. Không hiểu sao bốn
con sói con cũng quấn lấy bé Kengies, dường như chúng linh cảm thấy ở