trại cừu gần như không còn ai ngoài hai mẹ con Guliumcan và một gia đình
nữa, họ đang đợi đến lượt đi tới bãi chăn thả mùa hè, còn đàn ông thì đã đi
hết.
Chính vì thế mà đêm đó Bôxton hết sức vội vã, lại thêm con Đônkuliuc
vẫn chạy năng nổ và đầy tự tin như thường lệ. Nó chạy nhanh, đều chân,
hân hoan phấn chấn. Dưới ánh trăng, tai và bờm của con ngựa vàng óng
vùng sông Đông này lấp lánh lên, những bắp thịt chuyển động trên phần
mông chắc nịch hệt như mặt nước gợn lăn tăn về ban đêm. Thời tiết không
nóng không lạnh, thoang thoảng mùi cỏ. Bôxton đeo khẩu súng sau lưng –
thiếu gì chuyện có thể xảy ra vào ban đêm trong núi. Còn khi đến nhà rồi
thì anh sẽ trả súng về chỗ cũ và khẩu súng không tháo đạn sẽ treo lên đinh
với toàn bộ năm viên đạn trong ổ.
Bôxton dự tính đến trại cừu vào lúc trời còn rạng sáng, khoảng năm giờ,
và hình như tình hình sẽ đúng như vậy. Vào đêm đó anh lại một lần nữa tin
chắc rằng anh thật gắn bó với vợ con: mới qua một ngày mà anh đã mong
nhớ vợ con rồi và giờ đây anh đang vội vã trở về nhà. Trên đường đi, điều
khiến anh lo ngại nhất là con sói cái Acbara sẽ lại quanh quẩn cạnh nơi ở
của họ và sẽ cất tiếng hú khủng khiếp khiến Guliumcan và bé Kengies
hoảng sợ. Anh chỉ biết tự trấn an là sau khi con Tastrainar chết thì con
Acbara không xuất hiện nữa, ít nhất, cũng không nghe thấy tiếng nó hú nữa.
Nhưng Bôxton lo lắng thật hoài công vào đêm đó.
Vào đêm đó, Acbara đang than vãn với nữ thần sói Biuri-Ana cạnh hang
cũ trong khe núi Basat. Và dù nó có ở bên cạnh trại cừu của Bôxton thì nó
cũng chẳng làm kinh động một ai – sau khi Tastrainar chết, nó chỉ đau khổ
lắng nghe những tiếng người và súc vật vọng ra từ trại cừu…
Và thế là ngày đó đã đến…
Vào sáng hôm đó Bôxton thức dậy khi nắng đã chiếu sáng rực rỡ: sau