biết rằng ở phía đó có người. Nó đứng yên, đưa cặp mắt xanh buồn rầu nhìn
chú bé. Thấy thế, bé lại bước gần đến nó, vuốt đầu nó, còn nó thì thè lưỡi
liếm bé khiến bé rất thích. Nó trút lên chú bé nỗi âu yếm đã tích tụ lại trong
tâm hồn nó. Nó khao khát hít lấy hương thơm trẻ thơ của bé. Nó bất giác
nghĩ: thật sung sướng biết bao nếu như sinh vật nhỏ nhoi mang hình người
này sống trong hang của nó dưới vòm đá. Hết sức thận trọng để không làm
xây xát cổ chú bé, nó ngoạm lấy cổ áo bé Kengies và hất mạnh lên u vai –
loài sói vẫn tha cừu non đi khỏi bầy cừu bằng cách ấy.
Bé Kengies hét lên một tiếng thất thanh như con thỏ bị thương. Chị láng
giềng Axưngun đang đi về phía nhà kho phơi quần áo thì nghe thấy tiếng
thét của bé, chị vội chạy đến, nhìn ra sau góc nhà, quẳng quần áo xuống đất
và lao đến cửa nhà Bôxton.
Bôxton cuống cuồng giật khẩu súng trên tường, nhảy bổ ra khỏi nhà,
theo sát gót anh là Guliumcan.
– Phía này! Phía này! Bé Kengies kia kìa! Con sói cái đang tha bé đi kia
kìa! – chị láng giềng vừa gào to vừa kinh hoàng ôm lấy đầu.
Nhưng Bôxton cũng đã nhìn thấy con sói cái – nó chạy nước kiệu, cõng
trên u vai bé Kengies đang gào khóc ầm ỹ.
– Dừng lại! Dừng lại, Acbara! Dừng lại, tao bảo! – Bôxton thét to và
chạy theo con sói cái.
Con Acbara chạy nhanh thêm, còn Bôxton xách súng lao theo, thét lạc
giọng đi:
– Để con tao lại, Acbara! Để con tao lại! Tao sẽ không bao giờ đụng đến
loài sói nữa! Để con tao lại, quẳng nó lại! Acbara! Hãy nghe tao, Acbara!
Anh dường như quên rằng lời lẽ của anh chẳng có mảy may ý nghĩa gì
đối với con sói cái, những tiếng la hét và việc anh rượt đuổi theo chỉ làm nó
hoảng sợ, và nó bắt đầu chạy nhanh hơn.