họ.
Apđi thường mặc loại sơ mi kẻ ô, áo săng-đai và quần bò, lúc trời lạnh
thì anh khoác thêm chiếc pantô tàng và đội chiếc mũ lông đã cũ của bố anh
để lại. Anh cũng ăn mặc như vậy khi đến đồng cỏ Môiuncumư.
Việc anh bị trói chặt nằm lăn lóc trong thùng xe vào giờ đó gợi lên cho
anh những ý nghĩ chua chát. Nhưng lần này cảm giác sâu sắc nhất của anh
là nỗi cô đơn. Anh nhớ lại câu danh ngôn mà anh còn nhớ mang máng của
một nhà thơ phương Đông nào đó: “Giữa đám đông hàng ngàn người ta
cũng thấy cô đơn mà lúc một mình một bóng ta cũng thấy cô đơn”. Anh
càng chua chát và đau khổ hơn nữa khi nghĩ đến nàng, cô gái mà từ ít lâu
nay đã trở nên gần gũi nhất trên đời và thường xuyên ám ảnh anh chẳng
khác gì đã biến thành một phần máu thịt của anh. Cả vào lúc này đây anh
cũng không thể tách nàng khỏi anh, không thể không gởi đến nàng những
tình cảm và nỗi niềm xúc động của mình. Và nếu như thật sự có thuật thần
giao cách cảm như sự tiếp xúc cực kỳ nhạy bén của các bản tính gần gũi
trong trạng thái căng thẳng đặc biệt, thì vào đêm đó nàng nhất định phải
cảm thấy nỗi mệt mỏi lạ lùng và mối tiên cảm về tai hoạ…
Giờ đây, rốt cuộc anh đã hiểu được sự đúng đắn trong những lời lẽ
ngược đời cũng của nhà thơ phương Đông nói trên mà trước đây anh
thường diễu cợt và không tin: “Mong sao những ai thực sự có khả năng yêu
sẽ không được ai yêu”… Thật quái gở! Nhưng giờ đây, anh thầm khóc khi
nghĩ đến nàng, khi nhận thức ra rằng nếu như anh không biết đến sự tồn tại
của nàng, không yêu nàng một cách thầm kín và tuyệt vọng như yêu cuộc
sống của chính mình trước lúc chết, thì sẽ không có nỗi đau khôn nguôi này,
không có nỗi buồn này, không có khát vọng mãnh liệt, điên rồ và đau đớn là
ngay lập tức vùng thoát ra được để giữa đêm khuya chạy qua suốt thảo
nguyên đến nhà ga Gianpắc-Xax, một ga xép heo hút trên tuyến đường sắt
xuyên lục địa dài muôn dặm, để gặp nàng, để như khi xưa được ở bên cửa