mặt trăng vẫn cao vời vợi ở chỗ cũ, chỉ có tiếng hát đã ngừng ngân vang rất
lâu vào tối hôm đó là đột nhiên bị đứt quãng…
“Khuôn mặt Xanđrô trắng bệch như phấn trong đêm tối, anh vớ lấy bao
da còn rượu ở dưới đáy, tưới khắp người và sặc sụa uống để dập tắt ngọn
lửa trong lòng anh… Sau đó anh lấy lại hơi thở, bình tĩnh đi một vòng
quanh những xác chết nằm ngổn ngang quanh đống lửa. Rồi anh gỡ vũ khí
của những kẻ bị giết, treo lên mỏ yên ngựa của chúng, quẳng đi những dây
cương và hàm thiếc khỏi đầu ngựa, và thả cho chúng được tự do. Anh thả
tất cả bảy con ngựa, kể cả con ngựa hồng của mình… Anh dõi nhìn chúng
đánh hơi thấy đã được thả lỏng, chúng nối đuôi nhau bước về phía người ở
tại ngôi bản phía trước núi thuộc vùng đất thấp – vì ngựa bao giờ cũng đến
những nơi có người sinh sống… Nhưng rồi, tiếng vó ngựa cũng im bặt,
hình bóng lũ ngựa đi thành hàng một ở phía dưới cũng biến mất…
“Mọi việc đã xong xuôi, Xanđrô lặng lẽ đi vòng một lần nữa quanh sáu
tên vừa bị giết không kịp trở tay. Rồi anh bước lánh sang bên một chút, tì
nòng khẩu mode vào thái dương. Một phát súng nữa lại vang lên giữa vùng
núi non như một tiếng vọng ngắn ngủi. Bây giờ anh là người thứ bảy đã hát
xong khúc hát của mình…
“Thiên balat Grudia kia đã kết thúc như vậy đấy.
“Tôi bỗng nhớ đến câu chuyện đó khi ngồi trong viện bảo tàng nghe
nhóm ca sĩ Bungari trình diễn những bài thánh ca Bungari cổ. Những bài
thánh ca này được sáng tác nên bởi những con người từ bóng tối của các thế
kỷ, cất lên lời kêu gọi cao cả và thậm chí cuồng loạn nữa, hướng tới đấng
Thượng Đế cũng do họ tạo nên, hướng tới thế giới phi hiện thực mà cũng
chính họ biến thành hiện thực tinh thần. Bởi con người tin chắc rằng họ cô
đơn trong thế giới này đến nỗi họ sẽ chỉ tìm thấy Người trong các bài hát và
những lời cầu nguyện.
“Tôi nhớ lại và trải qua toàn bộ câu chuyện đó chỉ trong vòng vài giây.