huýt sáo, khe khẽ hát và nghĩ cách làm sao có được một cây nến. Nhưng
cuối cùng tôi chỉ nghĩ được một cách là ngồi viết dưới cột đèn thắp hơi
ngoài phố. Tôi mở cổng sân nhà tôi rồi vào phòng lấy giấy.
Quay lại đường phố, tôi lặng lẽ khoá cổng và ngồi xuống cột đèn. Xung
quanh thật yên tĩnh, tôi chỉ nghe tiếng chân nặng nề, thong thả của người
cảnh sát đang đi ở phố hẹp bên cạnh, và tiếng chó sủa đâu đó từ đồi Thánh
Henry vọng lại. Chẳng có gì quấy rầy tôi. Tôi bẻ ngược cổ áo, bắt đầu tập
trung suy nghĩ. Tôi sẽ vô cùng hạnh phúc nếu đêm nay viết xong bài báo
nhỏ này. Tôi đang dừng lại ở đoạn khó nhất, cần khôn khéo chuyển sang
đoạn mới rồi dần dần tiến đến đoạn kết một cách nhẹ nhàng, thong thả, cảm
động, nhưng câu cuối phải thật đột ngột, mạnh mẽ, như phát súng giữa đêm
khuya hay như tiếng ào ào của núi tuyết lở. Chấm hết.
Nhưng tôi vẫn không nghĩ thêm được chữ nào. Tôi đọc lại toàn bộ từ đầu,
đọc to từng chữ một nhưng vẫn không sao tập trung nổi ý nghĩ để viết tiếp
một câu thích hợp. Trong khi ấy, một nhân viên cảnh sát đi tới, đứng chính
giữa phố cách tôi một quãng và làm hỏng hết trạng thái làm việc của tôi.
Hắn thì liên quan gì tới việc bây giờ tôi đang vắt óc cố nghĩ một câu thật
hay cho bài báo sắp gửi "Huân tước"? Tôi ở dưới cột đèn suốt một giờ,
người cảnh sát đã bỏ đi, cái lạnh châm vào da thịt tôi, tôi không thể tiếp tục
ở đây thêm được nữa. Buồn bã và chán nản vì viết không được, tôi lại mở
cổng đi vào phòng mình.
Trong phòng khá lạnh, vất vả lắm tôi mới nhìn thấy cửa sổ trong bóng tối
dày đặc. Tôi dò dẫm đi đến giường, cởi giày và bắt đầu xoa mạnh hai chân
cho ấm. Sau đó, tôi nằm xuống, vẫn để nguyên cả quần áo như mọi ngày.
Hôm sau, trời vừa hửng, tôi đã dậy, làm việc. Tôi ngồi đến tận trưa và viết
được khoảng hai chục dòng. Nhưng vẫn không kết thúc nổi bài báo.
Tôi đứng dậy xỏ giày, và để chống rét, bắt đầu đi đi lại lại trong phòng. Cửa