Gia đình Jacob vốn rất gần gũi với văn hóa và con người Việt
Nam. Bố của cậu trước đây là chuyên gia về dầu khí, đã từng có
thời gian sống và làm việc ở Việt Nam hai năm, nhờ thế Jacob cũng
đã có dịp sang thăm Việt Nam. Mặc dù khi đó còn nhỏ nhưng ấn
tượng về một đất nước có nền văn hóa khác biệt đã rất sâu đậm
trong cậu. Đặc biệt ấn tượng đó còn được làm đậm nét thêm bởi tình
yêu đối với nghệ thuật ẩm thực của đất nước nhỏ bé này. Jacob rất
thích các món ăn Việt. Cậu cho biết đã từng thử qua các món bánh
cuốn chả, nem rán, gỏi cuốn… món nào cậu cũng thích, đặc biệt
phở là món ăn mà cậu yêu thích nhất. Biết Vi làm thêm ở một quán
phở Việt Nam, cậu cứ đòi Vi dẫn đến ăn. Nhưng Vi xua tay bảo, cô
không biết nấu phở nên để khi nào tiện, cô sẽ làm nem rán mời cậu
chứ đừng có ăn phở ở ngoài quán, không khéo sẽ làm hỏng mất
những ký ức tươi đẹp của cậu đối với ẩm thực Việt Nam. “Phở ở đây
nhìn thì giống nhưng ăn thì lại chẳng giống chút nào”, Vi bảo. Có lẽ
các quán ăn đã phải cải biên nó đi cho phù hợp hơn với khẩu vị của
người nước ngoài.
Jacob cũng đi làm thêm ở một quán ăn Nga. Ở đây sinh viên ai
cũng đi làm thêm cả. Những sinh viên năm thứ nhất, thứ hai như Vi
thường làm thêm các công việc chân tay hoặc bán hàng đơn giản:
chạy bàn, rửa xe, baby-sitter
, bán hàng part-time vào mùa cao
điểm, hoặc đi làm volunteer, gây quỹ từ thiện… Những sinh viên năm
cuối hoặc sinh viên cao học có thể làm gia sư, một số làm tutor
trong trường… Các “hoạt động ngoại khóa” đó, vừa giúp Vi có thêm
được chút tiền chi tiêu, vừa giúp cô làm giàu thêm vốn tiếng Anh,
cũng như cho cô nhiều cơ hội để tìm hiểu và hòa nhập với cuộc sống
và con người nơi đây. Vừa học vừa làm khiến cho quỹ thời gian của
Vi trở nên ít ỏi. Trong guồng quay hối hả đó, một người bạn như
Jacob đúng là món quà quý giá.