của các tín đồ Thiên Chúa giáo cùng với đấng tạo hóa của họ, Giáo hoàng
của họ, linh mục của họ, sự cứu rỗi của họ và tất cả những thứ có liên quan.
Suy nghĩ phải chịu trách nhiệm về những tội ác, về những xấu xa trong các
mối quan hệ, về sự phân chia giai cấp và vân vân. Suy nghĩ luôn mang tính
máy móc, nó tạo ra những triết lý máy móc. Suy nghĩ đã tạo ra sự chia cắt
trong nhân loại với hình thức “tôi” và “không phải tôi”, “chúng ta” và “bọn
họ”. Tất cả những thứ trên đều là kết quả của suy nghĩ, tôi cho rằng điều
này quá rõ ràng.
Như tôi đã nói, suy nghĩ đã tạo ra một thế giới phi thường nhưng cũng đã
chia cắt nhân loại trong mối quan hệ của họ. Suy nghĩ nó là phản ứng của
ký ức, kinh nghiệm và kiến thức. Chính suy nghĩ đã chia cắt nhân loại.
Điều đó có nghĩa: suy nghĩ đã tạo ra mối quan hệ của chúng ta qua những
hoạt động tương tác, qua hình ảnh về “tôi” và “bạn”. Hình ảnh tồn tại qua
các mối quan hệ không ngừng tương tác lẫn nhau. Những hình ảnh này rất
cứng nhắc, máy móc nên mối quan hệ giữa những hình ảnh này cũng trở
nên máy móc, không sáng tạo.
Suy nghĩ không những tạo ra sự phân mảnh trong thế giới ngoại vi mà
còn tạo ra sự phân mảnh trong thế giới nội tại, trong tâm hồn nhân loại.
Chúng ta nhận thấy rằng suy nghĩ là nhân tố cần thiết. Nếu không có suy
nghĩ bạn không thể về nhà, bạn không thể viết nên một cuốn sách, bạn
không thể trò chuyện — bạn chẳng làm được gì nếu không có suy nghĩ.
Suy nghĩ chính là phản ứng của ký ức, kiến thức, kinh nghiệm nhưng tất cả
những thứ này là sản phẩm của quá khứ. Suy nghĩ tiên đoán về tương lai
qua hiện tại.
Kiến thức là nhân tố quan trọng, nhưng kiến thức lại khiến tâm hồn
không thể vượt qua được giới hạn của hiện tại và quá khứ. Suy nghĩ chỉ có
thể vận hành trong phạm vi của những điều đã biết, dù nó có thể tiên đoán
về những điều chưa biết dựa trên nền tảng là những điều đã biết. Bạn nhận
thấy rõ hiện tượng này trên toàn thế giới — lý tưởng, tương lai và những