toàn! Ối em ơi là em, em vội về nơi đâu mà bỏ chúng tôi, bỏ đàn em thơ côi
cút mà đi? Khắp vùng đâu phải đã hết con gái đẹp nết na mà chim ưng của
tôi vội kết duyên cùng đất đen? Hỡi ôi, sao em lại chọn căn nhà tối tăm làm
vậy?! Không cửa không lối, không cả bầu trời cao rộng trên nóc, chỉ một
hố đất đen ngòm ẩm ướt mà thôi!!! Cạnh em đâu phải vợ hiền – chỉ có
thành áo quan lạnh lẽo! Không bạn bè, không người thân thương! Biết lấy
ai hôn lên môi em? Biết lấy ai chải mái đầu em? Cớ sao lửa hồng sớm lụi
tắt? Cớ sao lá xanh vội úa tàn? Để không phải vợ trẻ yêu dấu được than
khóc? Đâu có phải nàng đang khóc than, đang vật vã thân mình! Khóc em
chỉ có bà con dân lành! Đốm lửa kia đâu phải sao sáng trên trời! Đốm lửa
kia chính là ngọn nến đưa tiễn hồn em, em ơi là em ơi!
Chiếc quan tài cứ bồng bềnh trôi đi trong tiếng than khóc và nước mắt
tiễn đưa của bà con quanh vùng – những tiếng khóc và những giọt nước
mắt chân thành ấy đâu có mua được ở bọn người chuyên nghề kêu thuê
khóc mướn!
Kia rồi, cái huyệt sâu đen ngòm. Phút giây vĩnh biệt, Nađêia quỳ xuống
hôn tay người đã hy sinh vì nàng. Vất vả lắm tôi mới lôi nổi nàng rời khỏi
cỗ áo quan lúc hạ huyệt. Chừng ba chục bác mugik vần một tảng đá xám to
tướng lên các đòn tay chở đến chân gò, rồi vần lên đỉnh, nơi đã đào huyệt.
Trên tảng đá khắc một cây thập ác và tên tuổi – bằng những nét chữ vụng
về, nguệch ngoạc.
Đất đá rào rào rơi xuống quan tài, che khuất dần gương mặt yêu quý đối
với tôi. Sau đó người ta vần tảng đá xám đến đặt cạnh mộ. Rưgôrơ cùng
dăm mugik nữa giơ cao mấy cây súng săn cổ lỗ, nổ một loạt vào bầu trời
lãnh đạm, thấp xùm xụp. Người cuối cùng của dòng họ Janốpxki,
Xvetilôvich đã về cõi hư vô.
– Chẳng còn bao lâu nữa sẽ đến lượt tôi, - Nađêia thì thầm với tôi. –
Mong sao nhanh nhanh lên.
Lại một loạt tiếng nổ ầm ầm. Gương mặt mọi người như chết lặng đi.