CHƯƠNG
14
C
ó thể phỏng chừng giữa trưa thì tôi đến huyện lỵ (tôi nói “phỏng
chừng” bởi vì mặt trời không hề một lần ló ra khỏi mây mù). Ấy là một thị
trấn dẹt như cái bánh xèo, lèo tèo hơn cả một phố vắng heo hút, chỉ cách
lãnh địa Janốpxki chừng ngót hai chục cây số đường rừng xơ xác. Con
ngựa tôi cưỡi lội bì bõm qua các phố lầy lội. Nhà cửa chẳng thấy đâu, chỉ
thấy hàng dẫy chuồng gà. Điểm duy nhất phân biệt cái thị trấn ấy với làng
mạc xung quanh là mấy bốt gác sơn kẻ sọc với vài ba viên cẩm râu ria xồm
xoàm, mặc đồng phục vá chằng vá đụp. Chỉ thấy hai ba cửa hiệu là nhà
gạch xây trên những móng cao...
Trên quảng trường chính, bùn lầy ngập đến đầu gối. Trước ngôi nhà tòa
án xám xịt, vôi vữa đã tróc nham nhở, ngay cạnh bậc thềm, có đến sáu con
lợn nằm run rẩy vì lạnh, chốc chốc lại rúc vào nhau cố tự sưởi ấm. Mỗi lần
như vậy xung quanh lại hộc... hộc... éc... éc... ầm ĩ.
Tôi buộc ngựa, trèo những bậc thang cót két dưới mỗi bước chân, lên
đến một hành lang ngột ngạt mùi giấy mốc và hôi hám mùi chuột. Khi mở
cửa vào phòng, chỉ chút xíu nữa thì tôi giật rách tung lớp vải sơn bọc ngoài
đã mủn ra. Bước vào phòng, thoạt tiên tôi chẳng nhìn thấy gì cả vì mấy ô
cửa sổ nhỏ xíu chỉ để lọt vào phòng một luồng ánh sáng quá ư ít ỏi, lờ mờ
trong khói thuốc lá dày đặc. Một người nhỏ bé, rúm ró, đầu hói, đuôi áo lòi
cả ra ngoài quần, dương mắt nhìn tôi. Đoạn, y chớp mắt, và tôi lại vô cùng
ngạc nhiên: mi mắt trên hoàn toàn bất động, mi mắt dưới kéo lên che kín
trông y như mắt cóc.
Tôi xưng tên.
– Ngài đã đến ạ? – thằng người cóc tỏ vẻ ngạc nhiên – Vậy mà chúng
tôi...