không được rồi. Trong khi đó, ở châu tôi, việc binh bị, ngoài ông Lý Kiêu
Đương, không có người thứ hai, ngài phái viên ạ.
Quẩn quẩn quanh quanh, khôn khéo bẻo lẻo, lúc bóng gió xa xôi, khi
gành gót nghểnh ngảng, ông thổ ty kiêm nhà phú thương trổ hết tài bắt mối
hàng, dẫn khách để giới thiệu với Chính, rằng, chỉ có ông là xứng đáng và
cần phải giữ chức tỉnh trưởng còn bộ hạ thân tín của ông là xếp Đương thì
là kẻ duy nhất đáng ở địa vị ủy viên quân sự tỉnh.
Nhưng, ông càng da diết và càng toạc móng heo bộc lộ tham muốn bao
nhiêu thì Chính lại càng như lảng xa câu chuyện bấy nhiêu. Chính vừa nghe
vừa gật đầu lạnh nhạt. Cho tới khi ông Yêng thở đánh phào khoan khoái vì
nghĩ rằng mình đã trình bày một cách rành rẽ, tỉ mỉ và hết sức đầy đủ lý sự,
thì Chính mới ghé vai ông, thoáng cười, nhẹ nhàng:
— Ông Yêng à, bây giờ mà ta đã vội bàn việc xếp sắp các chức vị trong
chính quyền tỉnh thì tôi e là sớm quá!
Biết là bị hớ, nhưng ông Yêng trợn mắt, cười lấp:
— Tôi sợ rằng nước đến chân không kịp nhẩy ấy chứ.
— Tôi ngại rằng chuyện lọt ra lại có người nói ta tham quyền, ham chức
tước. Mà...
— Không không... — Ngật cái cổ mỡ màng ra sau ghế, ông tri châu họ
Nông lắc lắc đầu, xua tay — Nhảy vào quan lộ, đáo công môn là tôi thực
lòng không ưa. Tôi nói ngài phái viên nghe nhé: như tôi là phú thương, đại
phú, đại quý, giàu sang mãn đời, tôi còn thiết cái gì. Việc cai trị việc binh
bị... nếu có tham gia thì quả là vì lòng dân thúc ép thôi, ngài ạ.
Chính gật đầu:
— Tôi hoan nghênh tấm lòng ấy của ông!
Lấy lại được đà, ông Yêng lấn lướt:
— Ấy đấy, ngài phái viên ạ! Có bàn bạc trước vẫn có hơn chứ! Không
phải là việc buôn bán nhất bản vạn lợi đâu. Nhưng có đi có lại vẫn toại lòng
nhau. Ví dụ ông La Văn Đờ góp năm mươi quân, ông Hoàng Văn Chao góp
năm mươi quân, tôi góp ba trăm. Vâng, ba trăm!...
Ông châu họ Nông buông lửng, chành miệng ông cười hề hề. Ông nhất
định mặc cả. Vốn ông nhiều thì lãi ông cũng phải nhiều chứ! Thế ông vững,