QUÝ VĂN-TỬ ĐUỔI CỬ BỘC
Lỗ Văn-công thứ XVIII (608 trước tây-lịch)
XUÂN-THU. – Người nước Cử giết vua tên là Chu Kỷ.
TẢ-TRUYỆN. – Kỷ-công (tức là Chu-Kỷ) có hai con : thế-tử Bộc và
Quý-Đà. Vì thương Đà nên truất Bộc. Lại làm nhiều việc càn dỡ. Cả nước
đều oán. Thừa cơ-hội, Bộc cùng người nước Cử thí Kỷ-công. Rồi trộm bảo-
ngọc trốn qua Lỗ dưng lên cho vua (Lỗ Tuyên-công). Vua phong cho một
ấp và hạ lịnh rằng : « Nội hôm nay, phải giao ấp ngay ! » Quý Văn-tử (Tức
là Quý-Tôn Hàng-Phủ đương cầm chánh-quyền) đã không tuân theo còn
bảo quan tư-khấu trục-xuất Bộc ra khỏi nước với huấn-lịnh : « Nội hôm
nay, phải đuổi ra ngay ! »
Vua hỏi cờ. Quý Văn-tử bảo quan thái-sử tên Khắc tâu bày : « Quan
đại-phu trào trước là Tang Văn-Trọng dạy Hàng-Phủ biết lễ thờ vua. Hàng-
Phủ vâng theo, không dám sai-lạc. Dạy rằng : « Thấy kẻ có lễ cùng vua thì
kính-thờ như con hiếu thờ-phụng cha mẹ ; gặp kẻ vô-lễ với vua thì trừ giết
như chim ưng đuổi giết se-sẻ vậy ! » Tiên-quân của nước Lỗ ta (Chu-công)
khi quy-định lễ của nhà Chu có dạy : « Phép-tắc xét người là xem đức. Đức
dùng để đoán hành-động ; hành-động dùng để đo công ; công thành dùng để
nuôi dân. » Rồi định thệ-mạ như vầy : « Kẻ nào phá-hủy phép ấy là tặc.
Che-chở cho tặc là tàng. Trộm của người là đạo, trộm khí-dụng là gian, oa-
trữ và chia của là đại-hung-đức. Đối với bọn ấy phải có hình-phạt trừng-trị
không thể thứ-tha. », nên trong quyển ghi chín hình-luật (của Chu-công)
không bỏ sót. Nay, nhờ Hàng-Phủ biết tra-xét việc của tên Bộc nước Cử là
phi-pháp. Vả chăng : hiếu, đễ, trung, tín là đức tốt ; còn đạo, tặc, tàng, gian
là nết xấu. Xét Cử Bộc, về hiếu với trung là kẻ thí chúa và giết cha, về tín là
kẻ trộm vàng ngọc, vậy tức là « đạo » và « tặc » nữa ! Còn bảo-vật kia là
gian-khí. Nếu vì mê lợi, hay ham của mà chiếm giữ tức là oa-trữ, theo phép