kịp đuổi chúng. Họ Tấn-vân có con bất-tài, tham ăn uống, mê châu báu,
cướp chức-tước, ưa xa-xí, chẳng lúc nào hả dạ ; đặt thuế-má vơ-vét của dân,
không bao giờ chán ; không ngó-ngàng kẻ cô-quả, chẳng xót-thương kẻ
nghèo-đói : thiên-hạ ví cùng ba họ trên và gọi là « tham-mê ». Mới làm tôi
vua Nghiêu, ông Thuấn đã rước hiền-giả của bốn phương, đuổi bốn hung-
tộc, cho ra ngoài bốn cõi, chống ngăn quỷ Mị, quỷ Ly.
Cho nên khi vua Nghiêu thăng-hà, thiên-hạ đồng-tâm ủng-hộ ông
Thuấn lên ngôi thiên-tử vì đã cử mười sáu lương-tướng, bài-trừ được bốn
kẻ hung-bạo.
Vì vậy, nơi trong Ngu-thơ, kể công vua Thuấn có câu : « Kính bày năm
điển, dân-chúng đều theo », chẳng dám trái lời. Rồi thêm rằng : « Lo trị
trăm quan, trăm quan nên việc ». Kế tiếp : « Rước hiền bốn phương, bốn
phương hòa-mục, » chẳng còn ác hung.
Vua Thuấn thành được hai mươi công (cử mười sáu hiền, bỏ bốn dữ)
mới thành thiên-tử. Nay tuy Hàng-Phủ chưa thâu nạp một hiền tài, nhưng
đã trừ bỏ một hung-đồ. Đối với công-trạng của Thuấn-đế, trong hai mươi,
đã được một rồi. Như vậy, sau nầy may ra khỏi tội !
*
LỜI BÀN. – Nước Lỗ đã suy, chánh-quyền về tay Quý-thị. Sử-gia
đương thời chỉ thấy họ Quý cướp quyền mà không thấy được đầu mối của
sự cướp quyền đó. Đọc Tả-truyện đến đoạn Quý Văn-Tử đổi tên Bộc nước
Cử mới biết đó là đầu mối. Quyền, nếu do nhà vua nắm giữ, thì bề-tôi, chỉ
có tay không, làm thế nào mà cướp được ? Chắc phải có chỗ hở – một dịp
nào – bề-tôi mới thừa lấy đó ; chắc phải có danh gì, bề-tôi mới mượn lấy đó
; chắc phải có thuật gì, bề-tôi mới dùng lấy đó để cướp lấy chánh-quyền.
Lỗ Tuyên-công vừa cướp ngôi của anh
, bá-quan trong trào chưa hẳn
phục-tùng, dân-gian trong nước chưa trọn tin theo, quyền-hành chưa chắc
thuộc về tay ai, ngàn năm mới có dịp như thế, cho nên Quý Văn-Tử thừa