nghịch, thì có nên trách sự nhận đỉnh hối-lộ hay chăng ? Cho nên lời can
của Tang Ai-Bá không lọt được vào tai của Hoàn-công cũng là phải lắm !
Theo trước mà luận, lời can của Tang Ai-Bá bất trung ; theo sau mà nói, lời
can của Tang Ai-Bá bất trí ! Chỉ nói một lời mà có tới hai lỗi : Vậy còn cho
Tang Ai-Bá là hiền-nhơn, điều ấy ta không tin được.
Than ôi ! Mưu-mô của Nghiêm Vưu định ra để chế-ngự Hung-Nô cũng
là một kỳ-kế mà người quân-tử không cho là kỳ-kế, vì mưu ấy dâng lên cho
Vương Mãng ; nghị luận của Trần Tử Ngang về công-ích của nhà Minh-
Đường cũng là chánh-đáng mà người quân-tử không cho là chánh-đáng, vì
nghị-luận với Võ-hậu ; vậy can-gián của Tang Ai-Bá về sự dung nạp đỉnh
của xứ Cáo cũng là trung-trực, mà người quân-tử không cho là trung-trực,
vì can gián Lỗ Hoàn-công.
Phàm muốn xem-xét một lời, trước nên xem địa-vị của người, sau mới
xét đến lời. Nếu đã thất-thân ở trong khu-vực của bọn soán-nghịch, thì tuy
lời có trung, tuy mưu có thâm, cũng không sao tránh khỏi tiếng giúp bọn tôi
loàn con giặc ! Ví khiến Lỗ Hoàn-công nạp lời của Tang Ai-Bá rồi hành-
động đúng lễ-nghi và pháp-độ, sau lại cư-xử đúng theo « chiếm quấy, giữ
phải » thời sẽ tránh được họa Bành Sanh… như vậy, thì nơi cửu-tuyền, Ẩn-
công không thể nhắm mắt được, mà tội của Tang Ai-Bá cũng sẽ là to-tát
lắm thay !
Cho nên, ta vẫn chủ-trương rằng : « Lời gièm-pha của Vũ Phủ là mưu
cho Lỗ Hoàn-công cướp ngôi ; lời can gián của Ai-Bá là chước cho Lỗ
Hoàn-công giữ ngôi ; kẻ đầu loạn là Vũ Phủ, kẻ thành loạn là Ai-Bá. Nếu
định tội theo chánh-danh, chánh nghĩa không nên để Tang Ai-Bá ở dưới Vũ
Phủ. »