nữa, ngày ngày như tuyết băng, giá rã, cho là tham-lam hay keo-kiệt, điều
nào không phải là chí-lý ?
Vả chăng, về « việc » thì có lành hay dữ, còn về ý-niệm thì không gì là
dữ với lành. Ý-niệm ấy, gia vào việc lành thì gọi là « thiện-niệm », gia vào
việc dữ thì gọi là « ác-niệm », như vậy về ý chỉ có một nào phải là hai.
Đời cho Ngu-công là tham-lam vì lòng thích-cầu của không biết chán ;
nếu biết dùng ý-niệm đó để cầu đạo khi bực « lập » chưa rồi đã cầu đến bực
« quyền », làm hiền chưa xong đã cầu làm thành, như vậy có khác gì Đức
Khổng-tử « học hoài không biết chán » ?
Đời cho Ngu-thúc là keo-kiệt vì lòng thích giữ của không muốn mất ;
nếu biết dùng ý-niệm đó để giữ đạo, khi đạo sống thì sống với, vật-dục
không dời lòng được, khi đạo chết sẽ chết theo, uy-quyền không cướp đạo
được, như vậy có khác gì Nhan Hồi « được điều lành mau ghi vào dạ,
không để cho mất » ?
Vậy thì tham-lam với keo-kiệt, trước là ác, sau lại thiện, theo vật mà
đổi tên, chớ nào phải hai ý-niệm ?