ngon hoặc cùng vài ba tri kỷ luận bàn về văn học. Cụ nhứt quyết chủ trương
: « Lịch sử và địa dư đặt nước nhà vào giữa hai nguồn văn hóa, muốn trở
nên một công dân đất Việt, chúng ta phải thâu thập cả đôi. Âu Tây giúp ta
kỹ thuật, Á Đông cho ta nghệ thuật làm người ».
Để chứng minh lời nói, Cụ nhắc lại một gay cấn vừa xảy ra trong
trường quốc tế, rồi chỉ rõ giải pháp của người xưa khi gặp cảnh ngộ tương
tợ để bắt buộc kẻ đối thoại phải nhìn nhận : « Thiếu Hán học là một sự thiệt
thòi rất lớn ».
Sẵn có quan niệm ấy nên Cụ nhận lời ngay khi chúng tôi ngỏ ý cầu
học. Lối dạy của Cụ thật là đặc biệt. thường ngày Cụ dùng tiếng Việt để
giảng bài, nhưng khi gặp áng văn quá bóng-bảy hay huyền-diệu thì Cụ dùng
cả tiếng Pháp để diễn-tả tư-tưởng, mượn triết-học Đức để so-sánh, đem
học-thuyết Hy-Lạp để chứng minh, cốt-yếu là giúp học trò hiểu cho thấu
đáo, tận-tường. Khi gặp tư-tưởng thanh-cao hoặc áng văn bất-hủ, chúng tôi
lật đật ghi rồi chép lại trong giờ nhàn rỗi để trình lên cho Cụ xem-xét. Cụ
dò từng câu, đối-chiếu từng chữ để phê-bình. Nhờ Cụ tiến dẫn, chúng tôi
mới « nuốt hận » chép thơ của Tư-mã Thiên, sụt sùi thảo tờ biểu xuất-sư
của Gia-Cát, băn khoăn đứng trên lầu Nhạc-Dương với Trọng-Yêm, ngạo
nghễ biên thơ từ-chức cùng Tạ-Phùng-Đắc.
*
Ngẫu-nhiên khéo sắp cho chúng tôi gặp được một bực thầy đáng kính,
thì cũng nhờ ngẫu-nhiên chúng tôi lại gặp quyển sách đáng yêu.
Kẻ vừa nhập đạo thường không tiếc lời ca-tụng tôn-giáo mới của mình.
Chúng tôi nào có tránh được thường tình đó trong khi hầu chuyện với ông
Trương-Quan, một nhân vật mà giới mại bản Huê-kiều và làng « thanh sắc
» bổn xứ vẫn còn nhớ tiếng. Nghe chúng tôi ca tụng nhân tánh của nền văn-
hóa Trung-Hoa, Trương-quân đột-ngột hỏi : « Như thế chắc bác-sĩ đã đọc
quyển Đông-Lai bác nghị rồi ? » Chúng tôi phải thẹn thùng nhìn nhận : «