ngực hơi đỏ, thân đen, mé dưới thì đen tro, cũng có con khoang trắng đen
lẫn lộn, chim này có óc nhớ lâu, mắt rất tinh trông được xa, nên người ta
dùng để mang thư được. Sức sinh-sản mau và thịnh, một tháng đẻ một lần 2
trứng, thịt nó ăn được, làm thuốc nên dùng chim câu trắng. Chủ : điều-hòa
tinh khí thêm hơi sức, chữa mụn nhọt độc, bị gió nổi mụn sẩn ghẻ lở ; và
chữa bệnh bạch-điến, bệnh du-phong và các bệnh ngoài da, bệnh đậu-mùa,
xào chín với rượu ăn. Dùng chim câu tuy bổ ích cho người, nhưng sợ giảm
mất hiệu-nghiệm của thuốc, phải nên lưu-ý. Chủ : giải độc các mụn nhọt và
độc ở bệnh đậu-mùa. Huyết giải độc ở thuốc và độc ở các sâu bọ. Phân tên
gọi là tả-bàn-long (vì phân chim câu đều quay sang bên tả) lấy phân chim
câu rừng thì tốt. Tính : cay, ôn, hơi độc, người ghẻ lở, sao qua tán nhỏ bôi
xoa. Trộn với cỏ cho ăn chữa lừa ngựa ghẻ.
(Nhập-môn thực loại) : thịt bồ-câu ôn, không độc, chủ bổ tinh khí, giải
chất độc ở thuốc ; ăn khỏi khát nước, tuy bổ ích cho người, nhưng người
uống thuốc phải kiêng, sợ giảm chất thuốc. Phân chữa đầu ngứa lắm, mọc
mụn mà không đau, tán luyện với dấm thành cao, nấu sôi vài lần bôi. Đầu
rụng tóc nổi gầu trắng, lấy nước gạo rửa sạch tán nhỏ xoa bôi khỏi ngay.
51. Bạch-cự
白苣
(Lãn-ông) : ta gọi cây rau mét (rau diếp trắng). Tính : lạnh, đắng,
không độc. Chủ : làm dịu bớt nóng, khỏe gân cứng xương, mát-mẻ thảnh-
thơi tinh-thần, giải chất độc ở rượu, điều-hòa trong bụng làm thông mạch
máu.
(Tham-khảo) (Cương-mục) : tên là bạch-cự, sinh-thái-ba, thuộc loại rau
oa-cự (rau diếp) tựa rau diếp có lông trắng, trong có nhựa trắng, tháng giêng
gieo hạt, tháng tư có hoa vàng, hoa, quả, hột đều giống rau diếp, tháng 8, 10
lại giồng lượt nữa được, sắc tía gọi tử-cự, vị đắng gọi khổ-cự, ăn sống hay
nấu cũng được, lại dùng để làm thuốc. Chủ : bổ gân xương, lợi 5 tạng, mở
khí úng tắc ở trong lồng ngực và màng ngực, thông các kinh mạch, trị bệnh
tì-khí, khỏi hôi mồm, thêm thông-minh, có chất làm cho răng trắng, người ít
ngủ thì nấu chín ăn.