CHỖ NÀO CŨNG NẮNG
Q
uá cái tuổi háo hức những món quà miệt vườn trong giỏ xách mẹ,
mỗi bận bà lên thăm anh hóng thứ khác: những câu chuyện của quê nhà.
Năm tiếng đồng hồ ngồi xe đò không ăn nhằm gì với bà già quen làm lụng,
nên vừa bước chân vào nhà anh, ngay lập tức chuyện giòn như cốm nổ.
Không lúc nào chịu ngồi yên một chỗ, trong lúc xăng xái dọn chỗ này dẹp
chỗ kia, vừa làm vừa kể, những chuyện nhà quê theo bước chân mẹ dìu dặt
nửa xa nửa gần. Giọng điệu bâng quơ, như thể không ai nghe cũng không
sao, mẹ nói cho vui nhà vui cửa. Chuyện và người kể chuyện, là những gì
mà anh không thể mua ở cái thành phố tiện nghi đến tận xương tủy này, tiện
nghi đến nỗi những kẻ nhớ quê cũng mua được cá lòng tong, mớ tép rong.
Mà, những câu chuyện ấy cũng đâu có giựt gân, kịch tính gì. Lơ vơ,
quẩn quanh chỉ là cái góc bếp bị dột, cô bạn bên xóm vừa làm sui đầu tay,
con lộ bê tông mới toanh phóng qua trước nhà. Sực nhớ gì thì nói đó, mẹ cứ
láp giáp rời rạc, như thể chắp vá nhưng cái quê nhà mà anh đã rời bỏ hồi
mười tám tuổi hiện lên sống động như bộ phim ai ải màu rơm rạ mục.
Không phải cái tên nào anh cũng biết, nhưng anh cảm giác họ quen thuộc
với mình, cái cô dâu phóng khỏi chiếc xuồng để quay lại với gã thợ rèn mà
cổ yêu, hay bà thầy bói lấy búi tóc trong bụng con bệnh bằng máu lưỡi. Mẹ
cũng không màng anh có quen người này người kia hay không, có gợi nhớ
gì không. Quan trọng gì, mẹ sẽ ở lại nhà anh vài ba ngày rồi phải về coi
vườn tược, thời gian mẹ con gần gụi cũng ngắn ngủn, nên phải tận dụng
những thứ có thể nói được với nhau.
Bằng cách đó mẹ buộc anh vào quê nhà, dù sợi dây đó không thấy được
bằng mắt thường, mong manh. Đôi khi anh cũng vuột khỏi nó, trôi tuột theo