neo theo, nó có bao nhiêu lam gió, có bao nhiêu chỗ dột, có bao nhiêu cây
cột, thông thuộc còn hơn nhà mình. Họ còn khóc cho chính họ, bị tính như
vắng mặt lâu rồi.
Nước mắt sẽ chẳng thay đổi được gì hết, có ai thấy chúng đâu.
Cũng không phải tự dưng mà bạn nghĩ ra chuyện trồng cây. Có lần đem
sửa đồng hồ ở chỗ một anh thợ quen, anh nói hên quá, cô tới trễ chắc không
biết đâu tìm, ngày mai tôi dời tủ đi nơi khác, tránh chỗ cho nhà nước bật
gốc hàng me của khúc đường này.
Anh kể hổm rày người ta rần rần tới tiễn cây. Họ đi chậm rãi, ôm gốc
cây, đưa điện thoại nhờ anh chụp hình. Có người còn rờ lớp vỏ cây đã rêu
mốc, miệng láp nháp kể chuyện tình, hồi xưa tôi với bồ hay ra đây chơi, lần
đầu hôn hít con gái run như đuôi thằn lằn đứt. Có người tần ngần đảo xe vài
lượt mới chịu đi, làm bảo vệ mấy tòa nhà bên kia đường ngó lom lom, bởi
tụi trộm cướp thường làm vậy.
“Thiên hạ quỡn thiệt, chắc là dư nước mắt”, anh thợ đồng hồ cười. Một
cái cười hơi khó cắt nghĩa.
Chỉ chắc chắn là không quá nhiều cảm tình cho những ai tới ôm cây.
Trước khi bám lề đường, anh cũng có hai năm kê tủ thợ bên hông chợ Nhà
Lầu. Cái chợ đó được thương không thua gì hàng me này đâu, anh kể, lại
cười.
Muốn hỏi sao anh có vẻ không ưa mấy nước mắt khóc cổ thụ khóc cái
chợ cũ nát, thì anh đã lảng qua chuyện khác. Ông già sửa giày ngồi gốc cây
bên kia không biết đau ốm gì mà cả tuần rồi không thấy ra. Thằng nhỏ thợ
hồ hay ăn cơm hộp rồi dựa gốc me chợp mắt, bữa trước nghe nói té giàn
giáo gãy chân, giờ không biết sao rồi. Lâu quá không thấy hai cha con ông
đẩy chiếc xe bán nước mưa, ống quần lúc nào cũng ướt sũng.
Chuyện có vẻ rời rạc như cơm nguội phơi khô, như nhớ gì nói nấy.
Những người quen anh thợ đồng hồ đang nhắc, coi bộ cũng không có mối
liên hệ gì nhau, ngoài một điểm chung duy nhất: biến mất.
Không cặn bụi. Không dấu tích. Mà chẳng thấy ai thương níu như những
gì dành cho cái chợ, đường tàu sắt cũ bị bỏ rơi, một ngọn núi nung vôi hay
nay mai là hàng cây cổ thụ này. Hoặc có nhớ, thì cũng lẻ tẻ âm thầm, như