Đã có lúc, những người cho vay thực chất là trả tiền cho người khác để họ
vay tiền của mình. Trong khi đó, giá bất động sản tăng gần ba lần trong thời
gian từ năm 1963 đến 1979, trong khi giá tiêu dùng chỉ tăng khoảng 2,5 lần.
Song cuối bát cơm ngon lại có sạn. Chính các chính phủ từng thề thốt tin
tưởng vào "nền dân chủ sở hữu nhà ở" hóa ra cũng tin vào sự ổn định giá cả,
hay ít nhất là vào mức lạm phát thấp hơn. Để đạt được điều đó thì lãi suất
phải cao hơn. Hậu quả không mong muốn là một trong những cú bùng-vỡ
bong bóng ngoạn mục nhất trong lịch sử thị trường bất động sản.
Từ Tiết kiệm và Cho vay đến dưới chuẩn
Hãy lái xe dọc theo con đường Liên tiểu bang số 30 từ Dallas, Texas, và
bạn không thể không nhận thấy những ngôi nhà và chung cư đang xây dở
dang hết dặm này sang dặm khác. Sự tồn tại của chúng là một trong những
dấu vết cuối cùng còn nhìn thấy được từ một trong những vụ bê bối tài chính
lớn nhất trong lịch sử nước Mỹ, một vụ lừa đảo đã làm cho toàn bộ ý niệm
coi bất động sản là một kênh đầu tư an toàn trở thành lố bịch. Tiếp sau đây là
một câu chuyện không phải về bất động sản (real estate) mà là về "siêu thực
sản" (surreal estate).
Các hiệp hội Tiết kiệm và Cho vay - phiên bản Mỹ của các hội nhà ở Anh
- là nền tảng cho nền dân chủ sở hữu nhà ở của nước Mỹ. Là sở hữu chung
của những người gửi tiền, các tổ chức này đồng thời vừa được bảo vệ lại vừa
bị hạn chế bởi một khung điều lệ của chính phủ.
40.000 đô la trở xuống được chính phủ bảo hiểm với phí chỉ bằng một phần
mười hai của 1% tổng số tiền gửi. Song mặt khác, họ chỉ có thể nhận cho
vay những người mua nhà sống trong bán kính 80 km tính từ trụ sở chính
của họ. Và từ năm 1966, theo Quy định Q, có một trần lãi suất 5,5% được áp
đặt lên lãi suất tiền gửi của họ, cao hơn 0,25% so với mức các ngân hàng
được phép trả. Vào cuối thập niên 1970, khu vực lặng lẽ này đã bị tàn phá
bởi lạm phát hai chữ số - đạt tới 13,3% vào năm 1979 - và sau đó là bởi lãi
suất tiết kiệm tăng mạnh sau khi chủ tịch Cục Dự trữ Liên bang vừa được bổ