tợn hơn chúng. Nhưng những loài đó sinh nở chậm hơn và dần bị quét
sạch.
Dù là một động vật trên cạn, giống loài này của chúng ta, nhờ liên
tục phát kiến, đã vượt biển. Chúng ta đã tới những hòn đảo nơi những
kẻ ngoại lệ của tiến hóa sinh sống: những con chim đẻ ra trứng dài
hàng foot, những con hà mã kích thước bằng một con lợn, những con
thằn lằn khổng lồ. Đã quen với đời sống cô lập, những sinh vật này
được trang bị nghèo nàn trong cuộc đối phó với những kẻ mới tới hay
những hành khách đi theo chúng (chủ yếu là chuột). Rất nhiều trong số
những loài này cũng không chống chịu nổi.
Quá trình đó tiếp diễn, lúc dừng lúc chạy, trong hàng nghìn năm, cho
tới khi giống loài này, không còn là một loài quá mới, trên thực tế đã
trải khắp mọi ngóc ngách của địa cầu. Ở thời điểm đó, một vài điều ít
nhiều cùng lúc xảy ra đã cho phép Homo sapiens [
], như sau này
giống loài này tự gọi nó, sinh sản ở một tốc độ chưa có tiền lệ. Trong
vòng một thế kỷ, dân số tăng gấp đôi; rồi gấp đôi lần nữa, rồi lần nữa.
Những cánh rừng mênh mông bị phá trụi. Loài người làm điều đó một
cách có chủ ý, để kiếm cái ăn cho mình. Ít chủ ý hơn, họ chuyển những
tổ chức hữu cơ từ lục địa này sang lục địa khác, sắp xếp lại toàn bộ hệ
sinh thái.
Trong khi đó, một sự thay đổi kỳ lạ hơn và còn căn bản hơn nữa
đang diễn ra. Nhờ việc phát hiện ra những mỏ năng lượng ngầm dưới
đất, loài người bắt đầu thay đổi thành phần của bầu khí quyển. Điều
này, tới lượt nó, làm thay đổi khí hậu và đặc tính hóa học của các đại
dương. Một số loại thực vật và động vật thích nghi bằng cách chuyển đi
nơi khác. Chúng trèo lên những dãy núi và di cư về các địa cực. Nhưng
rất nhiều loài, đầu tiên là vài trăm rồi vài nghìn và cuối cùng có lẽ tới
vài triệu, bị bỏ lại. Tốc độ tuyệt chủng tăng mạnh, và kết cấu của sự
sống thay đổi.
Trước đây chưa từng có sinh vật nào làm thay đổi sự sống trên hành
tinh này theo cách đó, cũng chưa từng xảy ra những sự kiện tương tự.