sao sao bám vào đá. Việc đó cũng bao gồm nhiều giờ đồng hồ ngồi yên dưới
nước, đếm số cá bơi ngang qua.
Trong vùng nước cách xa các mạch khí, Hall-Spencer và các cộng sự của
ông tìm thấy một tập hợp tương đối điển hình các loài Địa Trung Hải.
Những loài này bao gồm: Agelas oroides, một loại bọt biển nhìn giống bọt
xịt cứu hỏa; Sarpa salpa, một loài cá làm thức ăn quen thuộc thỉnh thoảng
gây ảo giác; và Arbacia lixula, một loại cầu gai có màu tím nhạt. Cũng sống
trong khu vực này là Amphiroa rigida, một loại rong biển màu hồng, có gai,
và Halimeda tuna, một loại rong biển màu xanh lá, lớn lên dưới dạng hàng
loạt các đĩa nối với nhau (Cuộc khảo sát giới hạn ở những loài đủ lớn để
nhìn thấy được bằng mắt thường). Trong khu vực không có mạch khí này, họ
đếm được 69 loài động vật và 51 loài thực vật.
Khi Hall-Spencer và nhóm của ông tiến hành các đo đạc ở gần mạch khí
hơn, tổng số mà họ đếm được rất khác. Balanus perforates là một loại hà
màu xám giống một ngọn núi lửa nhỏ. Nó phổ biến và rất nhiều từ Tây Phi
tới xứ Wales. Ở khu vực pH 7,8 tương đương với nước biển của tương lai
không xa, Balanus perforates đã biến mất. Mytilus galloprovincialis, một
loại sò biển màu xanh-đen sống ở vùng Địa Trung Hải, dễ thích nghi tới
mức chúng đã tới sống ở rất nhiều vùng trên thế giới như một loài ngoại lai
xâm lấn. Cả chúng nữa, cũng biến mất. Những loài vắng mặt còn có:
Corallina elongata và Corallina officinalis, cả hai đều là những dạng rong
biển màu hơi đỏ, cứng; Pomatoceros triqueter, một loại giun biển sống
đứng; ba loài san hô; vài loài ốc; và Arca noae, một động vật thân mềm
thường được gọi là Thuyền Noah. Tổng cộng, một phần ba các loài tìm thấy
ở những vùng không có mạch khí không xuất hiện ở vùng có pH 7,8.
“Thật không may, điểm bùng phát lớn nhất, điểm mà ở đó hệ sinh thái bắt
đầu suy sụp, là điểm có mức pH trung bình 7,8, điều chúng ta chờ đợi sẽ xảy
ra vào năm 2100,” Hall-Spencer nói với tôi bằng giọng lãnh đạm kiểu Anh
của ông. “Vì thế chuyện này thật đáng báo động.”
***