hiểu xem cần làm gì với chúng. Sống đơn độc, các con vật này không thể ở
gần nhau, nhưng rõ ràng nếu chúng không được đưa tới gần nhau, thì chúng
không thể kết đôi. Roth đã lao vào nghiên cứu thể trạng của loài tê giác, thu
thập mẫu máu, phân tích nước tiểu, và đo mức hoóc môn. Càng nghiên cứu
nhiều, cô càng thấy các thách thức nhân nhiều lên thêm.
“Đó là một loài rất phức tạp,” cô nói với tôi khi chúng tôi trở lại văn
phòng của cô, nơi được trang trí với những dãy kệ đầy những con tê giác
bằng gỗ, đất sét và vải, con cái từ Bronx hóa ra đã quá già để sinh nở. Emi,
con cái từ Los Angeles, có vẻ đúng độ tuổi nhưng chưa bao giờ rụng trứng,
một bài toán đố mà Roth mất gần một năm mới giải được. Khi cô nhận ra
vấn đề rằng con tê giác cần cảm nhận được có một con đực quanh đó, cô bắt
đầu sắp xếp những “buổi hẹn hò” ngắn, được theo dõi cẩn trọng giữa Emi và
Ipuh. Sau vài tháng như thế, Emi mang thai. Rồi nó bị sẩy thai. Rồi nó lại
mang thai, và lại bị sẩy. Việc này cứ lặp đi lặp lại, tổng cộng đã có tới năm
ca sẩy thai. Cả Emi và Ipuh đều gặp vấn đề về mắt, mà Roth rốt cuộc xác
định được là kết quả của việc chúng ở dưới ánh nắng mặt trời quá lâu (Trong
thiên nhiên hoang dã, tê giác Sumatra sống trong bóng râm của tán rừng).
Vườn thú Cincinnati đã đầu tư nửa triệu đô la vào những tấm vải bạt làm giả
tán rừng như thế.
Emi lại có thai vào mùa thu năm 2000. Lần này, Roth sử dụng thêm các
hoóc môn bổ sung ở dạng lỏng, mà con tê giác đã tiêu hóa cùng những lát
bánh mì thấm đẫm progesterone [
]. Cuối cùng, sau mười sáu tháng mang
bầu, Emi đã sinh Andalas, một con tê giác đực. Tiếp theo đó là Suci - có
nghĩa là “thiêng liêng” trong tiếng Indonesia - và rồi một con đực nữa,
Harapan. Vào năm 2007, Andalas được chuyển trở lại Sumatra, tới một cơ
sở nhân giống nuôi nhốt ở Công viên Quốc gia Way Kambas. Ở đó vào năm
2012, nó đã trở thành cha của một con tê giác con tên là Andatu - cháu trai
của Emi và Ipuh.