lặn tìm thấy dưới đáy Biển Aegea. Đập vào mắt là bộ sưu tập bình am-pho
lớn. Bình am-pho có từ năm nghìn năm nay. Đầy duyên dáng, thon dài với
cổ bình như cổ thiên nga, chúng kết hợp vẻ ngoài trang nhã với sức bền và
độ dẻo dai của vật liệu - gốm và đá nung. Chúng dùng để chuyên chở dầu ô
liu và rượu nho, mật ong và pho mát, ngũ cốc và hoa quả, chúng đã đi khắp
thế giới thời cổ - từ Các Cột trụ của Heracles đến Colchis và Ân Độ. Đáy
Biển Aegea được rải đầy mảnh vỡ của bình am-pho, nhưng ở đó cũng có
nhiều bình còn nguyên vẹn, có thể tiếp tục đựng dầu ô liu và mật ong, nằm
yên trong các vỉa đá dưới đáy biển hoặc bị vùi dưới cát, giông như những
sinh vật bất động đang ẩp nấp.
Nhưng những thứ các thợ lặn tìm được chỉ là một phần nhỏ của thế giới
chìm dưới nước. Giống như thế giới mà chúng ta đang sống hôm nay, thế
giới trong lòng sâu biển cả ây cũng phong phú và khác biệt. Ở đó có những
hòn đảo đã chìm, và trên chúng là các thành phố và làng mạc, hải cảng và
bến thuyền đã chìm. Các đền thờ và thánh đường, ban thờ và tượng. Có
những chiếc tàu chiến bị chìm và rất nhiều thuyền đánh cá. Thuyền của các
nhà buôn và thuyền của lũ cướp biển săn lùng họ. Dưới đáy là những chiếc
thuyền ga-lê
của người Phoenicia, còn ở Salamis là hạm đội vĩ đại của
người Ba Tư - niềm tự hào của Xerxes. Những đàn ngựa, dê và cừu nhiều
không kể xiết. Những khu rừng và các cánh đồng trồng trọt. Những ruộng
nho và đồn điền ô liu.
Thế giới mà Herodotus từng biết.
Cái làm tôi xúc động nhất là một phòng tối có phần bí ẩn như một hang
động âm u, nơi trên những cái bàn, tủ trưng bày, trên các giá có những đồ
vật bằng thủy tinh được lấy lên từ đáy biển - tách chén, bát, bình, lọ đựng
nước thơm, ly. Không thể thấy chúng rõ ngay, khi cửa phòng còn mở và có
ánh sáng ban ngày rọi vào bên trong. Chỉ đến lúc người ta đóng cửa lại và
tối hẳn, nhân viên của bảo tàng mới bật công tắc. Những bóng đèn nhỏ thắp
lên bên trong tất cả các đồ vật, những miếng thủy tinh mờ và mong manh
sống dậy, bắt đầu lấp lánh, sáng lên, nhấp nháy. Chúng ta đứng trong bóng