rời Hemingway, nhưng bây giờ tôi bỏ qua những đoạn văn tả cảnh mà đọc
các đoạn hội thoại, vì chúng dễ hiểu hơn.
“- How many are you? - Robert Jordan asked.
- We are seven and there are two women.
- Two?
- Yes.”
Tôi hiểu hết cả đoạn này! Và đoạn này nữa:
“- Augustin is a very good man - Anselmo said...
- You know him well?
- Yes. For a long time.”
Đoạn này tôi cũng hiểu hết. Tôi bắt đầu cảm thấy phấn chấn hơn. Tôi đi
khắp thành phố, ghi lại các dòng chữ trên biển hiệu, tên hàng hóa trong cửa
hàng, những từ nghe được ở các bến xe buýt. Trong rạp chiếu phim, tôi mò
mẫm chép trong bóng tối những dòng chữ trên màn ảnh. Tôi ghi lại khẩu
hiệu trên biểu ngữ của những người biểu tình trên phố. Tôi thâm nhập Ân
Độ không qua hình ảnh, âm thanh và mùi vị, mà qua ngôn ngữ, không phải
ngôn ngữ bản xứ của Ân Độ mà là thứ tiếng ngoại lai, bị áp đặt, nhưng đã
được thuần hóa đến độ trở thành đồng nhất với đất nước này, trở thành chìa
khóa cho tôi. Trong trận đấu với Ân Độ, đấu thủ vòng đầu tiên của tôi là
ngôn ngữ. Tôi hiểu rằng mỗi thế giới đều có bí mật riêng của mình và chỉ
có thể đến được với nó bằng con đường học ngôn ngữ. Không biết ngôn
ngữ, thế giới ấy trở nên mơ hồ và khó hiểu, cho dù ta có sống trong nó hàng
năm trời đi chăng nữa. Ngoài ra, tôi nhận thấy mối liên hệ giữa tên gọi và
sự tồn tại, vì khi trở về khách sạn tôi phát hiện ra rằng tôi chỉ nhìn thấy
trong thành phố những gì mình biết gọi tên, ví dụ như tôi nhớ cây keo đã
gặp, nhưng lại không nhớ cái cây tôi không biết tên đứng bên cạnh nó. Tóm
lại, tôi hiểu rằng càng biết nhiều từ thì thế giới mở ra trước mắt càng giàu
có, đầy đủ và phong phú hơn.
***