Cảnh sát giữ tôi lại vì không có thị thực. Họ không trả tôi về được vì chiếc
máy bay chở tôi đến đã bay mất. Trên đường băng không còn một chiếc
nào. Họ bàn bạc xem phải xử lý tôi ra sao, cuối cùng họ bỏ về thành phố.
Chỉ còn lại hai người - anh lính canh sân bay và tôi. Đó là một anh nông
dân to lớn râu tóc đen nhánh, có đôi mắt hiền lành và nụ cười ngập ngừng
bẽn lẽn. Anh mặc chiếc áo choàng quân phục dài và đeo khẩu Mauser quân
dụng.
Bóng tối đổ xuống rất nhanh và cái lạnh ập đến ngay lập tức. Tôi lạnh run
lên, vì tôi bay thẳng đến từ một xứ nhiệt đới và chỉ mặc độc áo sơ mi.
Người lính canh đem củi, cành cây, cỏ khô đến và nhóm một đống lửa trên
sân bê tông. Anh đưa cho tôi chiếc áo choàng, còn anh thì thu mình trong
tấm chăn phủ lạc đà sẫm màu, quấn cao đến tận mắt. Chúng tôi ngồi đối
diện nhau không nói một lòi, xung quanh chẳng có gì xảy ra, đâu đó xa xa
văng vẳng tiếng dê kêu, và xa hơn nữa là tiếng động cơ xe hơi gầm gừ.
***
Sáng ra, những người cảnh sát tới, chở theo người đàn ông đứng tuổi, một
thương gia thu mua bông ở Kabul cho các xưởng dệt của Lodz. Ông Bielas
hứa sẽ giải quyết chuyện thị thực, ông đã sống ở đây một thời gian và có
nhiều quan hệ. Quả vậy, ông không chỉ đã giải quyết thị thực mà còn đưa
tôi đến biệt thự của ông, vui mừng vì sẽ không phải ở một mình. Kabul là
bụi và bụi. Thung lũng nơi thành phố tọa lạc hút những ngọn gió mang từng
đám cát mù mịt từ các sa mạc lân cận bao phủ lên mọi vật và khắp nơi chìm
trong màn bụi màu nâu sáng xám xịt chỉ lắng xuống vào những giò lặng
gió, khi không gian trở nên trong suốt, tinh khiết như pha lê.
Hàng đêm, phố phường bỗng nhiên tựa như bị một phép thuật bất ngờ bao
phủ. Bởi vì bóng tối ngự trị nơi đây chỉ được ánh sáng le lói của các hàng
quán ven đường rọi tới, những ngọn đèn và đuốc soi thứ ánh sáng chập
chờn leo lắt xuống các món hàng nghèo nàn xơ xác mà những người bán
hàng bày thẳng ra đất, bên lề đường, trước cửa nhà. Giữa các hàng đèn đóm