đảo này đang bao trùm bởi hệ tư tưởng hướng nội, sợ phải sống ở
nước ngoài.
Đi khám cho con ở Mỹ, bác sĩ chẩn đoán lại rằng con bà bị tổn
thương nặng và không có khả năng cứu chữa. Bác sĩ ở Nhật phán đoán
rằng bé chỉ bị nhẹ và vẫn còn hy vọng sẽ chữa khỏi được nhờ y học
tiên tiến. Nhưng chẩn đoán của bác sĩ ở Mỹ khiến bà hoàn toàn
mất hết hy vọng. Sống trong môi trường nước ngoài xa lạ, hoàn
toàn cách xa người thân, gia đình và bạn bè, gặp khó khăn trong giao
tiếp bằng tiếng nước ngoài, nuôi một đứa con khuyết tật và người
chồng hằng ngày bận rộn với công vụ từ sáng sớm đến tối khuya,
bà đã nhiều lần muốn từ bỏ cuộc sống vì không chịu nổi áp lực.
Sau nhiều lần tìm đến cái chết mà không thành, bà trở thành
một con người hoàn toàn khác.
Bà cho con đi học ở trường khuyết tật từ khi bé được ba tuổi. Bà
kể rằng, ở Mỹ mọi người xung quanh luôn niềm nở và không kỳ thị
con bà. Mọi người nhìn thấy bà và đứa con đi bên cạnh, dù biết
ngay là đứa trẻ không bình thường nhưng họ vẫn cười và bắt chuyện
với đứa trẻ dù biết con bà không thể đáp lại được. Ở Nhật thời đó thì
khác, ai cũng muốn che giấu nếu có một đứa con khuyết tật. Đặc
biệt chồng bà lại làm chính trị. Thời gian sống ở Mỹ ba năm đã
khiến suy nghĩ của bà thay đổi và sau khi quay trở lại Nhật, bà đã
không che giấu người khác việc mình có một đứa con khuyết tật, bà
cho bé đi học ở trường dành cho trẻ khuyết tật, sau này, khi con gái
lớn, bà cho con đi làm tại trung tâm việc làm cho người khuyết tật
mặc dù gia đình bà có một gia tài lớn đủ để mướn người chăm sóc cho
con trọn đời và con bà cũng không cần phải lao động hay đụng tay
vào việc gì cho đến cuối đời.
Người mẹ ấy đã nỗ lực rất nhiều để đưa con mình hòa nhập với
xã hội. Bà nghĩ, một người bình thường chỉ cần hòa nhập với xã hội
là đủ, nhưng con bà có nhiều khuyết tật nên không chỉ hòa nhập