dụng chúng rất ít, chẳng hạn như những doanh nghiệp thường
chủ yếu hoạt động ngoại tuyến (o ine). Họ có thể ngồi trên
những mỏ thông tin chưa được khai thác. Một số công ty có thể
đã thu thập dữ liệu, sử dụng nó một lần (nếu có), và giữ nó ở đâu
đó vi chi phí lưu trữ thấp - trong những “nấm mồ dữ liệu”, như
các nhà khoa học dữ liệu gọi những nơi thông tin cũ cư trú.
Các công ty Internet và công nghệ đang tiên phong khai thác
hàng núi dữ liệu, vì họ thu thập được rất nhiều thông tin chỉ
bằng cách hoạt động trực tuyến và đi trước các công ty khác
trong việc phân tích nó. Nhưng tất cả các công ty đều được
hưởng lợi. Các chuyên gia tư vấn tại McKinsey & Company cho
biết một công ty hậu cần (giấu tên) nhận thấy trong quá trình
cung cấp hàng hóa, nó đã tích lũy hàng đống thông tin về vận
chuyển hàng hóa trên toàn cầu. Thấy được cơ hội, nó thành lập
một bộ phận đặc biệt để bán dữ liệu tổng hợp ở dạng các dự báo
kinh doanh và kinh tế. Nói cách khác, nó tạo ra một phiên bản
ngoại tuyến của Google trong việc truy-vấn-tìm-kiếm-quá-khứ.
Hoặc SWIFT, hệ thống liên ngân hàng toàn cầu để chuyển tiền,
đã phát hiện ra rằng các khoản thanh toán tương quan với các
hoạt động kinh tế toàn cầu. Vì vậy, SWIFT cung cấp dự báo GDP
dựa trên dữ liệu chuyển tiền đi qua mạng lưới của mình.
Một số doanh nghiệp, nhờ vào vị trí của họ trong chuỗi giá trị
thông tin, có thể thu thập được những lượng lớn dữ liệu, mặc dù
họ có ít nhu cầu ngay lập tức đối với dữ liệu hoặc không thành
thạo trong việc sử dụng lại nó. Ví dụ các nhà khai thác điện
thoại di động thu thập thông tin về địa điểm của các thuê bao để
phân tuyến các cuộc gọi. Đối với những công ty này, dữ liệu như
vậy chỉ có các mục đích kỹ thuật hạn hẹp. Nhưng nó có giá trị
hơn khi được tái sử dụng bởi các công ty phân phối quảng cáo và
chương trình khuyến mãi được cá nhân hóa dựa trên địa điểm.
Đôi khi giá trị không đến từ các điểm dữ liệu riêng lẻ mà từ