“Nước nguồn Lũng Sơn chia về muôn ngả
Nào khác phận mình, biền biệt quê xa Sáng rời Hân Thành, tối ngủ Lũng
Sơn Rét run cầm cập, lầm lũi, tủi hờn. Dưới băng nước chảy, rặt tiếng kêu
thương
Trông về quê cũ, lòng đau dạ sờn”.
Nhẩm đọc bài thơ não nùng kia, tôi lại hình dung ra hình ảnh những con
người hồi hương này cô độc lê đi trên những chặng đường núi non cheo
leo, hiểm trở, tiết xuân se lạnh không làm dịu đi nỗi ám ảnh kinh hoàng,
không làm vơi đi nỗi đớn đau và hoang mang tột cùng trong lòng họ. Có lẽ
họ sẽ chẳng thể ngon giấc trong suốt phần đời còn lại. Về đến nhà thì thấy
hơn một nửa số nạn dân được chúng tôi cưu mang đã ra đi, vì dường như ai
nấy đều muốn nhanh chóng rời khỏi vùng đất ác mộng này. Thời gian còn
lại trong ngày, tôi dành để nựng Cẩu Nhi thôi khóc và cùng Rajiva tiếp
nhận những lời từ biệt. Đến tối, tôi thấy căn phòng của mình đã hoàn toàn
trống trải. Đây là đêm đầu tiên sau nhiều tháng, chỉ có hai chúng tôi trong
không gian của riêng mình.
Tôi bưng nước ấm vào cho Rajiva rửa ráy. Chậu nước ấm này là công
sức suốt một buổi chiều kiếm củi ở ngoại thành của Hô Diên Bình. Rajiva
đang trầm ngâm bên cửa sổ, tôi gọi mãi mới quay lại, lẳng lặng rửa ráy.
Xong xuôi, chàng lại trở về vị trí cũ.
- Đang nghĩ gì vậy?
Tôi định quét dọn phòng ngủ, nhưng không yên lòng khi thấy chàng cứ
mãi im lặng.
Chàng không quay lại nhìn tôi mà chăm chú ngắm nhìn vầng trăng lạnh
lẽo chênh chếch ngoài cửa sổ, giọng chàng rì rầm như tiếng suối ngày đông
giá buốt: