lồng một tấm gương, để chú chim tưởng rằng được gặp đồng loại. Vua làm
theo cách đó, quả nhiên chú chim nhỏ đã cất tiếng khi nhìn thấy bóng mình
trong gương, nhưng đó là tiếng kêu ai oán thấu tận trời xanh, chú chim đã
hót vang cho đến khi đứt hơi mà chết.
Chàng ngước lên vầng trăng lạnh lẽo ngoài kia, vẻ cô quạnh, lẻ loi như
một thứ định mệnh dai dẳng, vây khốn lấy chàng. Trầm tư giây lát, giọng
nói phiêu linh lại vang lên trong đêm tịch mịch:
- Ngải Tình, kể từ khi đến Guzang, ta không cứu được người cũng không
thể thuyết pháp, nhìn ra xung quanh, thấy mình như một vật thể cô đơn, lẻ
loi và rất đỗi hoang mang. Ta giống như chú chim nhỏ trong câu chuyện
kia, cất tiếng kêu đơn độc, vô vọng trên cành cây khô héo. Lẽ nào, ta phải
dựa dẫm vào kẻ là vua một nước nhưng giết người không nương tay, coi
mạng người như cỏ rác ấy, mới có thể cứu nhân độ thế, mới có thể truyền
bá Phật pháp ư?
Nước mắt chứa chan, sống mũi tôi cay xè. Một con người phẩm cách cao
thượng, không mảy may vương chút bụi trần như chàng, nếu không tận mắt
chứng kiến và tự thân trải nghiệm những khổ nạn vừa qua, sao có thể gạt
sang bên lòng tự tôn để suy sét những vấn đề vô cùng khó khăn đối với tư
tưởng truyền thống và khí khái cao ngạo của chàng kia chứ!
Tựa vào bờ vai luôn khiến tôi được vững dạ của chàng, tôi thở dài, nói:
- Danh sư Thích Đạo An, người từng cầu đến sự giúp đỡ của Phù Kiên
nói rằng: “Không dựa vào nhà cầm quyền, khó lòng phát triển Phật pháp”.
Ngày trước ở Tây vực chàng được mọi người tôn vinh, chủ yếu là bởi xuất
thân của chàng, hoàng thất Khâu Từ đã hậu thuẫn cho chàng, là chỗ dựa
vững chắc của chàng. Phật giáo là quốc giáo ở Tây vực, chàng xuất thân từ
gia đình quý tộc, nên dĩ nhiên không cần suy nghĩ đến vấn đề phải dựa vào
quyền lực của Vua chúa để truyền bá đạo Phật. Nhưng Trung Nguyên thì
khác. Những ưu thế chàng có được ở Tây vực đã trở nên vô nghĩa khi đến