Trung Nguyên. Nơi đây, Phật pháp không mấy phát triển, không ai quan
tâm đến xuất thân của chàng, không quý tộc vương tôn nào ủng hộ tư tưởng
của chàng.
Chàng hướng sang tôi, nỗi buồn trong đáy mắt đậm sâu. Tôi đưa tay vuốt
ve hàng lông mày đang nhíu lại của chàng xót xa khi thấy những nếp nhăn
cứ ngày một sâu hơn trên khóe mắt chàng:
- Rajiva, chàng nên học theo Phật tổ. Ngài có xuất thân tương tự chàng,
cũng là một thành viên trong hoàng thất của một tiểu quốc. Ngài đã ra sức
truyền bá đạo Phật ở Thiên Trúc, nơi mà toàn dân đều đã tin theo đạo Bà
La Môn. So với nhiệm vụ truyền bá đạo Phật ở vùng đất Trung Nguyên này
của chàng, công việc của Phật tổ gian nan hơn rất nhiều. Dù sao chàng
cũng có hai mươi tư đệ tử trợ giúp chàng truyền đạo, Phật tổ khi ấy mới chỉ
có năm đệ tử. Để hoàn thành sứ mệnh, Ngài đã phải khổ công nhường nào!
Tôi ngừng lại một lát, xâu chuỗi những tư liệu đã đọc được:
- Đối với tầng lớp quý tộc, Ngài kết giao với Vua chúa. Con trai vua
Bình Sa (Bimbisara) là thế tử A Xà Thế (Ajatasatru) giết hại vua cha để
cướp ngôi, sau đó tìm đến Phật Thích Ca xưng tội, Đức Phật đã rộng lòng
an ủi A Xà Thế. Đối với tầng lớp trung lưu, ngài đã liên lạc với các nhà
buôn, thuyết phục những cười giàu có làm cư sĩ (đệ tử tu tại gia), tiếp nhận
món quà là khu vườn tịnh xá của trưởng giả Cấp Cô Độc (Anathapindika).
Đối với dân thường, Ngài kết giao với cả kỹ nữ, ví như việc Ngài nhận lời
mời dùng bữa với nàng kỹ nữ Ambapali và còn vui vẻ nhận vườn hoa mà
cô kỹ nữ này có nhã ý tặng Phật. Em tin rằng chàng làu thuộc những điển
tích này hơn em.
Tôi lồng tay vào tay chàng, mỉm cười:
- Phật tổ đắc đạo năm ba mươi lăm tuổi, cuộc đời truyền pháp của Ngài
kéo dài bốn, năm mươi năm, Ngài viên tịch năm tám mươi tuổi, tính đến