vườn Champs-Élysée nữa; lý do là vì không khí ở đó không tốt; tôi
nghĩ cha mẹ tôi viện cớ để ngăn không cho tôi gặp con gái ông bà
Swann nữa và tôi tự bắt mình nhắc đi nhắc lại cái tên Gilberte suốt, như
những kẻ chiến bại cố gắng duy trì tiếng mẹ đẻ để không quên tổ quốc
mà họ sẽ không thấy lại nữa. Đôi khi, mẹ tôi vuốt trán tôi mà rằng:
“Vậy ra bây giờ các chú bé thôi không tâm sự với mẹ những phiền
muộn của mình nữa sao?”
Françoise thì hôm nào cũng đến bên tôi, bảo: “Mặt mày cậu mới dễ
sợ làm sao! Cậu không soi gương mà coi, nom như người chết rồi ấy!”
Thật ra, ngay cả nếu tôi chỉ sổ mũi nhức đầu thôi, thì Françoise vẫn
mang cái vẻ thê thảm ấy. Những than van ấy là bởi “thứ bậc giai cấp”
của bác hơn là vì lo cho tình trạng sức khỏe của tôi. Tôi không phân
biệt nổi thái độ bi quan ấy ở Françoise bấy giờ là đau đớn hay là mãn
nguyện. Tôi tạm thời kết luận rằng thái độ đó mang tính xã hội và nghề
nghiệp.
Một hôm, vào lúc người bưu tá mang thư, báo tới, mẹ đặt lên giường
tôi một bức thư. Tôi lơ đãng mở ra, bởi lẽ nó không thể mang cái chữ
ký duy nhất khả dĩ làm tôi sung sướng, chữ ký của Gilberte mà với
nàng, tôi chẳng có mối liên hệ nào khác ngoài Champs-Élysée. Ấy thế
mà ở mé dưới trang giấy, một dấu triện bạc khắc hình một hiệp sĩ đội
mũ sắt bên trên dòng phương châm Per viam rectam
một bức thư chữ viết to mà hầu hết các dòng đều như được gạch dưới,
đơn giản vì nét ngang của các chữ t, thay vì ở ngay thân chữ, lại được
vạch ở bên trên, tạo thành một nét gạch dưới chữ tương ứng ở dòng
trên, điều tôi nhìn thấy chính là chữ ký của Gilberte. Nhưng vì tôi biết
một bức thư mang chữ ký ấy gửi cho tôi là điều bất khả, nên nhìn thấy
nó mà lòng chưa tin, tôi cũng chẳng vui gì. Trong một thoáng, nó chỉ
khiến mọi thứ xung quanh tôi trở thành hư ảo. Với tốc độ chóng mặt,
cái chữ ký khó mà tin là có thật ấy nhào lộn nhoay nhoáy ở bốn góc
phòng, đùa giỡn với chiếc giường của tôi, bệ lò sưởi của tôi, bức tường
của tôi. Tôi thấy tất cả đều chao đảo như một người ngã ngựa, và tôi tự