nói chuyện, vì Thầu Chín nói chuyện rất hấp dẫn, rất thiết
thực, từ câu chuyện làm ăn đến câu chuyện cứu nước, từ
những câu nói bình thường đưa đến chuyện chính trị. Người
ta thấy ở ông có cái gì đáng tôn kính nhưng đồng thời dễ
thân mật. Người ta thường đem chuyện gia đình, chuyện
làm ăn ra bàn bạc, hỏi ý kiến Thầu Chín. Ông khuyên kiều
bào phải siêng năng, chăm chỉ, thật thà, yêu Tổ quốc, giữ
pháp luật và tôn trọng phong tục tập quán của người Xiêm.
Thầu Chín thường nhắc đến mối cảm tình của hai dân tộc
Xiêm-Việt. Ông nói: Việt Nam là thuộc địa, Xiêm là nửa
thuộc địa, Việt Nam bị Pháp áp bức, Xiêm cũng bị Pháp bắt
ký nhiều điều ước bất bình đẳng. Mình ghét Pháp, người
Xiêm cũng chẳng ưa gì Pháp. Xiêm và Việt Nam lại là láng
giềng. Nhất định người Xiêm có cảm tình với phong trào
chống Pháp của Việt Nam.
Sinh hoạt của anh em hợp tác lúc ấy rất gian khổ. Không
phải vì họ kiếm không ra tiền. Tuy số đông anh em khi ở
trong nước là tiểu tư sản, trí thức, chưa lao động quen
nhưng trong thời gian ở Xiêm, anh em đã lao động hóa, làm
được rất nhiều nghề. Thợ cưa, thợ mộc, thợ nề v.v… thứ gì
cũng làm được cả. Hơn nữa ở Xiêm nghề thủ công chưa
phát đạt, nên anh em cũng dễ kiếm việc mà làm cũng ra
tiền. Nhưng anh em đều thấy phải cần kiệm vì còn nào phải
nuôi con em của kiều bào và thiếu niên trong nước mới ra,
cho học tập (trong số thiếu niên này, có nhiều người hiện
nay là những cán bộ cốt cán), nào phải lo gây dựng cơ sở
như làm nhà trường chẳng hạn, và còn phải dự trữ để
phòng khi có đồng chí trong ra, ngoài vào, v.v… Cho nên có
khi hàng tháng anh em chỉ ăn rau sam hay rau lang chấm
muối, hoặc chỉ ăn muối không. Mua một vài ki-lô pa-đéc (cà
muối) cũng phải đợi khai hội biểu quyết. Thầu Chín cũng