lấy tên là “Đ.T” hiểu là “Đảng ta”, “Đấu tranh” hay “Đánh
Tây” cũng được. Báo in bằng kính như kiểu in đá. Anh Kiên
viết chữ trái. Tôi phụ trách in. Viết lên kính rồi phải phơi
cho khô mới lăn mực in được. Phơi dễ bị lộ và hay nổ kính.
Tôi nghĩ ra cái lò sấy điện bằng một cái hòm gỗ, trong lót
kẽm. Bốn bề gài vào được tám miếng kính. Hai đầu hòm
mắc hai ngọn điện 300 nến, bật lên một lúc thì khô, rất tiện
lợi. Bác cũng tham gia viết bài. Bác dặn anh em viết phải
làm thế nào cho mọi người hiểu được. Tôi là công nhân.
Trình độ văn hóa lúc đó còn thấp, Bác thường bảo : “Các
đồng chí viết rồi đem Trịnh Đông Hải đọc, Hải đọc mà hiểu
thì quần chúng hiểu. Thế là được”. Một hôm Bác đưa cho
“Tòa báo” một bài thơ. Bác nói đùa : “Thơ này là thơ của vợ
Trịnh Đông Hải gửi ra đây”. Bài thơ đăng lên, các anh em
hoạt động đều rất thích, nghe như có vợ nhắc nhủ mình
thật. Bài thơ đó tôi còn nhớ :
“Ba bốn năm giời luống nhớ thương,
“Nhớ chàng lưu lạc lại tha hương,
“Tóc thề đã chấm ngang vai thiếp,
“Lụy nhớ e chưa ráo mắt chàng,
“Thù nước, thù nhà, chàng gắng trả,
“Việc nhà, việc cửa, thiếp xin đương,
“Bao giờ đuổi sạch quân thù địch,
“Ta sẽ sum vầy ở cố hương.
Có một lần gặp chúng tôi, Bác hỏi : “Báo này gửi cho những
ai ? Ở đâu ? Số nhà nào ?” Bác ghi hết. Rồi tất cả báo in ra