Trung Quốc” vì tưởng anh là người Trung Quốc. “Anh Trung
Quốc” ở tầng gác hai
. Buồng anh mỗi bề ba mét, nhìn
xuống ngõ. Thời đó, ngõ nhà chúng tôi không có điện. Mãi
đến năm 1930 mới có điện. Tối đến người ta thắp đèn dầu.
Đời sống nhân dân trong ngõ nghèo khổ nhưng mọi người
ăn ở với nhau rất tốt. Nhà nọ biết nhà kia, thăm hỏi nhau,
giúp đỡ nhau, chơi bời với nhau thân ái, chứ không ích kỷ
như xã hội bấy giờ, ai biết người nấy, ai sống chết kệ ai.
“Anh Trung Quốc” ở trọ sống rất giản dị và hết sức đứng
đắn. Khi nào người làm trong nhà đi vắng, mẹ chồng tôi
thường sai tôi vào dọn nhà cho “anh Trung Quốc”. Những
lần như thế tôi mới có dịp thấy buồng ở của anh. Buồng
nhỏ, kê vẻn vẹn một cái giường, một cái bàn và một cái tủ.
Trong buồng có chậu rửa mặt, nhưng vòi nước thì ở đầu cầu
thang. Lò sưởi không có, mà mùa đông ở Pa-ri thì rất lạnh.
Tôi nhớ rõ một lần tôi gõ cửa buồng anh để vào dọn dẹp.
Anh chào tôi và bảo tôi: “Bà Giam-mô bà cứ để đấy cho tôi.
Tôi không muốn phiền bà. Bà để tôi làm lấy được”. Tôi thấy
anh mặc quần áo ngủ và anh đang ngồi làm việc gần cửa
sổ. Cửa mở, sợ gió lùa, tôi định đóng lại thì anh ngăn: “Bà
Giam-mô, bà cứ để như thế cho. Không sao cả. Xin cảm ơn
bà”. Có lần tôi vào buồng anh để thay đồ trải giường cho
anh thì gặp anh đang ngồi ăn cơm. Tôi thấy anh tay cầm
bát cơm, tay cầm đũa. Anh nấu cơm lấy bằng cái bếp cồn
để ở góc buồng. Anh chào tôi và nói: “Cảm ơn bà Giam-mô.
Tốt lắm. Cảm ơn bà”. Một lần khác bước vào buồng, tôi thấy
anh đang ngồi viết và thấy anh bảo: “Bà Giam-mô, bà cứ
để tôi làm lấy, tôi không dám phiền bà. Cảm ơn bà”.
Vải trải giường trong buồng anh do nhà trọ cung cấp và
thay đổi, nhưng quần áo của anh thì anh tự giặt lấy. Anh ăn