dần mất nước. Anh em nên thương yêu nhau, vui vẻ, đoàn
kết với nhau. Đoàn kết với công nhân Pháp, nhân dân Pháp
và các nước thuộc địa. Chúng ta đều là những người nghèo
khổ bị áp bức, bóc lột như nhau…”
Về Lơ Ha-vơ-rơ, anh em xúm lại hỏi. Tôi nhất nhất kể lại
hết, không sót cái gì. Anh em phấn khởi lắm. Từ đó theo lời
đồng chí Nguyễn Ái Quốc, anh em bí mật chuyền báo về
nước, về đến những nơi có Việt kiều ở, như Tân Đảo, đảo
Rê-uy-ni-ông,v.v… Anh em quyên tiền ủng hộ báo “Người
cùng khổ” và mua báo “Người cùng khổ”, “Nhân đạo”, tạp
chí “Bôn-sơ-vích”, đưa hàng trăm tờ về nước. Có lần đi Mác-
ti-ních, tôi đưa cả ba anh người Mác-ti-ních trốn mật thám
lậu vé về nước. Cái gì chứ cái món bí mật chuyền báo, đưa
người, anh em thủy thủ chúng tôi làm dễ thôi.
Năm 1923, tháng tư, tàu của tôi lại cập bến Lơ Ha-vơ-rơ.
Tôi lại nhảy về Pa-ri tìm đồng chí Nguyễn Ái Quốc. Sau lần
gặp đầu, đi biển cứ nhớ hoài. Lúc bấy giờ, phong trào công
nhân Pháp vẫn sôi nổi, vẫn tiếp tục làn sóng từ 1919, 1920.
Vùng Lơ Ha-vơ-rơ có hàng vạn công nhân bãi công hàng
tháng và có xung đột đổ máu với cảnh sát. Ở nước ta, đế
quốc Pháp đang đẩy mạnh bóc lột, bần cùng hóa nhân dân
ta. Nạn vỡ đê và đói xảy ra liên tiếp. Đồng bào đói rách,
phá sản phải bán mình cho chúng nó. Đi phu cao su ở Nam
Kỳ và Tân Thế Giới. Trong khi đó, tàu của nó cứ kìn kìn hết
chuyến này đến chuyến khác chở gạo của ta sang Pháp.
Chúng tôi thấy thế xót ruột, xót gan. Người mình chết đói,
gạo mình nó nẫng đi. Chúng tôi đinh ninh phải nói các cái
đó với đồng chí Nguyễn Ái Quốc. Nói với đồng chí mới hả.