bài quá kém. Sự thực, anh cảm thấy mình đã chơi khá tốt; mười năm qua
anh đã làm một công việc đầy những đổi thay và có phần thú vị.
Anh vóc người cao to, nước da bánh mật, mái tóc cắt ngắn màu nâu và
cặp mắt xanh đen. Trông anh nghiêm khắc, suy tư trừ lúc anh cười (những
lúc như thể không có nhiều lắm và những khi ấy, nom anh như đứa trẻ). Ở
gần mắt trái anh thường thấy giật giật nhẹ, nhất là khi anh làm việc quá căng
hoặc uống rượu nhiều thì càng thấy rõ. Suốt ngày đêm hôm trước ngày di
tản, anh đã luôn tay đóng gói và phá hủy các tài liệu, nên chứng giật giật ấy
càng thấy rõ khi anh bước lên máy bay. Anh mệt lử nhưng cũng hết sức vui
mừng vì đã xoay sở để được đáp chiếc phi cơ sang trọng của tiểu vương chứ
không phải đi những máy bay thường. Anh cho phép mình ngả người thoải
mái trên chiếc ghế mấy lúc máy bay cất cánh vút lên cao. Anh là con người
đã quen chịu đựng gian khổ và ít mong có được những tiện nghi để bù lại.
Anh có thể sẽ vui vẻ chịu đựng gian khổ trên đường đi tới Samarkand,
nhưng còn từ London đi Paris anh sẽ tiêu món tiền mười bảng cuối cùng để
đáp máy bay Mũi Tên Vàng.
Máy bay bay được hơn một tiếng đồng hồ thì Mallinson nói anh ta nghĩ
anh phi công đã đi chệch đường. Mallinson ngồi ngay phía trước. Anh là
một thanh niên khoảng hai mươi lăm tuổi, đôi má đỏ hồng, thông minh,
nhưng chưa phải là trí thức, còn nặng những hạn chế cũng như những tốt
đẹp của nhà trường. Trượt thi là nguyên nhân chính đã khiến anh bị điều đến
Baskul và anh đã cùng làm với Conway được sáu tháng, và Conway đã bắt
đầu mến anh.
Nhưng Conway ngại mệt vì phải nói chuyện trên máy bay, nên anh chi
uể oải mở mắt đáp lại mặc cho máy bay muốn bay theo đường nào thì bay,
anh phi công hẳn phải biết rõ việc mình làm hơn ai hết.
Nửa giờ sau, khi Conway đã gần thiếp ngủ vì mệt và vì tiếng động cơ
máy bay kêu rì rì, Mallinson lại đánh thức anh dậy nói: "Này anh Conway,
trước đây tôi cứ nghĩ Fenner lái chuyên bay này?"
"Ồ, thế không phải anh ta ư?"