toàn thích thú. Thay đổi luôn, có những quãng thời gian khá thú vị, trở nên
có phần không ổn định; đây là bản tóm tắt thời tiết của chính anh trong thời
gian ấy cũng như của thế giới. Anh nghĩ đến Baskul, đến Bắc Kinh, Macao
và nhiều nơi khác - anh thường di chuyển luôn. Xa xôi nhất là Oxford, nơi
anh đã làm công tác giảng dạy trong vài năm sau Chiến tranh, giảng dạy về
lịch sử Phương Đông, nơi anh đã từng hít bụi trong những thư viện đầy ánh
nắng, đã từng tòng teng chiếc xe đạp dạo xuống vùng xuôi. Cái hình ảnh gợi
lại đã hấp dẫn anh, nhưng không làm được anh xao động; với một ý nghĩa
nào đó, anh cảm thấy mình vẫn là một phần của tất cả những gì anh đã có
thể trở thành.
Một cảm giác lộn ruột quen thuộc cho anh biết máy bay bắt đầu hạ
thấp. Anh định mắng cho Mallinson mấy câu về sự bồn chồn lúc nãy, và có
lẽ anh đã mắng rồi nêu anh thanh niên không đột nhiên đứng ngay dậy, đầu
chạm vào trần buồng máy bay, lay lay đánh thức anh Barnard, người Mỹ,
đang gà gật ngủ ở ghế hàng bên kia lối đi.
"Trời ơi!." Mallinson kêu lên, mắt nhìn qua cửa sổ. "Mọi người hãy
nhìn xuống bên dưới xem kìa!"
Conway đưa mắt nhìn. Quang cảnh bên dưới không phải là quang cảnh
mà anh chờ đợi, nếu như thực sự anh có chờ đợi. Không phải là những
doanh trại gọn ghẽ, bố trí vuông vắn với những khu nhà để máy bay hình
thuôn; không nhìn thấy gì ngoài một làn sương mù mờ đục che phủ, một
vùng hoang vu mênh mông mang màu nâu sẫm. Máy bay tuy đang lao
xuống thực nhanh, nhưng vẫn còn ở một độ cao khác với những chuyến bay
thường. Nhìn thấy những dãy núi lớp lớp chạy dài, có lẽ gần hơn đường mờ
đầy mấy của các khu thung lũng khoảng đến một dặm. Đây là quang cảnh
điển hình của một vùng biên giới, tuy Conway chưa hề nhìn thấy bao giờ từ
trên một độ cao như vậy. Anh cũng lấy làm lạ nhìn mãi vẫn không thể nhận
ra đây là một vùng nào gần Peshawar.
"Tôi không nhận ra đây thuộc vùng nào trên thế giới," anh nói. Rồi kín
đáo, vì sợ sẽ làm những người khác hoảng sợ, anh ghé tai Mallinson nói: