bao lơn. Nom họ vui vẻ, họ đang lắc nhẹ chiếc áo choàng màu che đôi vai
trần. Tiếng cồng và kèn văng vẳng lại nổi lên. Conway nghe thấy một người
hỏi người kia. Người kia trả lời: "Họ làm lễ mai táng Talu." Conway chỉ biết
lõm bõm tiếng Tây Tạng; anh mong họ nói chuyện tiếp; qua một câu vừa
rồi, anh chưa hiểu được gì lắm. Sau một lúc lặng yên, người hỏi lúc nãy do
không nghe rõ, lại tiếp tục câu chuyện và được người kia trả lời.
Conway nghe lỏm được mấy câu và hiểu đại khái như sau:
"Anh ta chết ở ngoài."
"Anh ta vâng lời các vị cao cấp ở Shangri-La."
"Anh vượt qua biết bao nhiêu núi cao với một con chim mang anh."
"Anh mang theo cả mấy người lạ."
"Talu không sợ gió bên ngoài, cũng như lạnh ở bên ngoài."
"Tuy đi ra ngoài đã lâu, thung lũng Trăng Xanh vẫn nhớ anh."
Conway nghe không hiểu hơn nữa, và sau một lúc chờ đợi, anh trở về
phòng của mình. Anh đã nghe đủ để quay một vòng chìa khóa khác vào
trong cái bí mật bị khóa kín, và cái chìa khóa ấy quá khớp khiến anh ngạc
nhiên sao mình lại không tạo ra nó từ những suy luận của mình. Tất nhiên,
điều ấy đã có nảy ra trong đầu anh, nhưng rồi một cái phi lý lại mở đầu và
điều kỳ quái về nó đã khiến anh không chịu được. Giờ đây, anh thấy cái phi
lý ấy dù có kỳ quái đến đâu cũng phải nuốt đi. Chuyên bay từ Baskul không
hề là một hành vi vô nghĩa của một người điên. Nó là một cái gì đó đã được
tính toán, chuẩn bị và thi hành theo chủ mưu của Shangri-La. Những người
sống ở đây biết tên anh phi công chết, theo một nghĩa nào đây thì anh ta là
người của bọn họ, người ta than khóc cái chết của anh. Tất cả hướng về một
đầu óc thông minh chỉ đạo từ trên cao xuống nhằm vào mục đích của mình;
nghĩa là đã có một nhịp cầu những ý đồ nối liền các giờ bay và các dặm
đường. Nhưng ý đồ ấy là gì? Vì lý do gì bốn người hành khách ngẫu nhiên