gắng (bất thành) làm cho nó trở thành tổ chức toàn cầu đã làm cho nó thành
yếu kém, nếu là tổ chức nhỏ hơn và mạnh hơn thì Liên minh đã có thể trở
thành một công cụ hữu hiệu trong việc giữ gìn hòa bình. Tôi tin rằng những
ý kiến như thế vẫn còn giá trị và thí dụ, giữa Đế chế Anh và các nước Tây
Âu và có thể cả Hợp chủng quốc Hoa Kỳ có thể đạt được một mức độ hợp
tác, mà trên bình diện toàn cầu thì chưa khả thi. Một liên hiệp tương đối
chặt chẽ được xây dựng trên nguyên tắc liên bang trong giai đoạn đầu có
thể chỉ bao gồm một phần Tây Âu để rồi có khả năng mở rộng dần ra các
khu vực khác nữa.
Dĩ nhiên là việc thành lập một liên bang khu vực như vậy chưa loại bỏ
khả năng xảy ra chiến tranh giữa các khối khác nhau và muốn giảm nguy
cơ xảy ra chiến tranh đến mức thấp nhất thì phải thành lập một hiệp hội
rộng lớn hơn và lỏng lẻo hơn. Tôi cho rằng nhu cầu về một tổ chức như thế
không phải là trở ngại cho việc hình thành liên hiệp gắn bó hơn giữa các
nước gần gũi với nhau về văn hóa, quan điểm và tiêu chuẩn sống. Trong
khi tìm cách ngăn chặn mọi cuộc chiến tranh trong tương lai, chúng ta
không được ngộ nhận rằng có thể tạo ra ngay lập tức một tổ chức quốc tế
đủ sức ngăn chặn mọi cuộc chiến tranh trong bất kì khu vực nào trên thế
giới. Chúng ta không chỉ sẽ thất bại mà còn bỏ lỡ cơ hội giải quyết những
vấn đề khiêm tốn hơn. Cũng như mọi cuộc đấu tranh chống lại cái ác khác,
những biện pháp nhằm ngăn chặn chiến tranh trong tương lai có thể còn có
hại hơn là chính chiến tranh nữa. Giảm thiểu nguy cơ xung đột có thể dẫn
đến chiến tranh, đấy là tất cả những gì chúng ta có thể kì vọng.
Chú thích:
Về vấn đề này và những vấn đề khác được trình bày trong chương này
nhưng tôi chỉ có thể nói một cách ngắn gọn, có thể tìm đọc trong tác phẩm
của giáo sư Lionel Robins, Economic Planning and International Order
(Kế hoạch hóa kinh tế và trật tự quốc tế), 1937, passim.
Đặc biệt, xin đọc tác phẩm quan trọng của James Burham, The
Managerial Revolution (Cuộc cách mạng trong quản lí), 1941.