thanh. Chưa bao giờ chúng tôi thấy những tiện nghi của nền văn minh có
khi lại quyến rũ như thế này. Vào mùa Xuân năm sau, khi Trùng-Khánh bị
ném bom, tôi cũng lại lao mình vào các thú vui vật chất như vậy.
Tôi thấy hình như phản ứng tự nhiên của thần kinh sau khi bị quá căng
thẳng đã khiến người ta đi tìm những thứ tiêu khiển lành mạnh và khuây
khỏa như vậy.
Chú Ba sẽ phải về Thành-Đô bằng máy bay để ăn Tết với gia đình và chú
muốn tôi đi theo để nhận họ với Đại gia đình. Chú đặc biệt lưu ý tôi phải đi
thăm mộ bà nội để thắp nhang và khóc bà vì khi bà mất, tôi còn ở bên
Anh... Tôi chẳng muốn rời Trùng-Khánh chút nào, vì Pao sắp phải lên
đường ra mặt trận tây bắc trước khi hết Tết và không thể cùng tôi đến
Thành-Đô. Tôi sẽ quý và tiện tặn mấy ngày chung sống bên nhau này hơn
nếu tôi biết rằng chúng tôi sẽ phải xa nhau bao lâu hay nếu tôi đoán được
rằng, suýt chút nữa, chúng tôi đã xa nhau vĩnh viễn.
Phi trường Trùng-Khánh là một giải cát phẳng và hẹp, một cái đảo gắn bó
phía Nam của dòng sông. Hình thù của nó thay đổi tùy theo mực nước,
nhưng nó luôn luôn giữ nguyên dáng vẻ của một con sò. Anh Hai, Pao và
một vài người bạn ra phi trường tiễn chúng tôi. Chúng tôi ngồi kề bên nhau
được vài phút. Pao và tôi ngồi sát cạnh nhau trên cái xà ngang trong lòng
đò, nhưng chẳng nói năng gì. Một lớp sương mù dầy đặc buông trên mặt
nước và thành phố. Chúng tôi thấy mình được tách rời giữa một vòng
sương xám. Mặt nước đục phản chiếu một mầu sáng im lìm. Người lái đó ở
đầu con thuyền giống như là một bóng ma mờ xám. Nhiều giọng người
ngay kế cận làm chúng tôi giật mình, nhưng cả bờ sông, cả cái đảo và
những con tầu cùng những người khác đâu vẫn chưa thấy.
Chúng tôi đến phi trường lúc bẩy giờ và đến mười một giờ chúng tôi mới
cất cánh. Thoạt tiên, người ta đợi cho sương mù tan, sau đó người ta khám
phá ra máy bay bị trục trặc cần phải sửa và người ta lo sửa khoảng hai ba
giờ gì đó. Chúng tôi đi lang thang trên đảo, buồn vô hạn. Cát chui cả vào