và trong khi đang tìm kiếm một cách tuyệt vọng đứa con gái nhỏ vừa mất
tích, ông đã nhìn thấy một cánh tay nhô lên từ dòng thác. Giành lại được
đứa trẻ từ tay của thần chết, ông ôm chặt lấy cơ thể bé nhỏ trong lòng. Hai
người đã băng qua hàng cây số trong bóng tối, cố gắng để đứng vững trên
đôi chân trong tiếng gào thét đến điếc tai của những cơn gió xoáy đang chỉ
chực nuốt chửng lấy họ. Họ cứ đi cho đến khi kiệt sức và ngã xuống bất
tỉnh. Khi trời sáng, người đàn ông tỉnh dậy, bé gái nằm cạnh ông. Họ bị
thương nhưng đã sống sót. Chỉ có một khác biệt duy nhất: cô bé mà ông
cứu sống không phải là con gái của ông. Ông đã không thể tìm lại được xác
của con gái.
Sau một đêm thương thảo dằng dai, cuối cùng người đàn ông đã chấp
nhận giao cô bé cho chúng em, em không chắc cô bé có sống sót được sau
chặng đường dài không, nhưng nếu ở lại trên đó, cô bé sẽ chỉ còn sống
được thêm vài ngày nữa. Em đã hứa với người đàn ông ấy là sẽ quay trở lại
sau một, hai tháng nữa, mang theo một xe tải đầy lương thực. Nhờ thế ông
ấy đã chấp nhận hi sinh, chắc hẳn vì nghĩ đến những người dân khác trong
làng. Dù lý do của em là chính đáng, em vẫn cảm thấy mình thật là xấu xa
trong ánh mắt của ông. Em về đến San Pedro, bé gái vẫn đang ở ranh giới
mong manh giữa sự sống và cái chết, em thì hoàn toàn kiệt sức. Để anh biết
mà tiện đường ứng xử, Juan là trợ lí của em. Cái câu nói đầy ẩn ý của anh
mới ngớ ngẩn làm sao! Em có phải đang ở trại hè nghỉ mát bên Canada
đâu!!! Dù sao em vẫn hôn anh.
Susan.
TB: Vì anh và em đã thề luôn luôn nói ra sự thật giữa hai chúng ta, em
phải thú thật với anh một điều: anh và cái thành phố New York của anh làm
em phát ngán với câu chuyện về những người vô gia cư mà anh kể!
Lá thư của Philip cô nhận được liền ngay sau đó; tuy anh đã viết lá thư
ấy trước khi nhận được thư cô.
Ngày 10 tháng Năm năm 1975,Susan,