không thấu, từ đó mất lòng tin vào phủ Chúa, dẫn đến cảnh đất nước loạn
ly, giặc cướp nổi lên như rạ. Chỉ trong phủ Quy Nhơn đã có ba bọn cướp
lớn: Ngưu Ma Vương và Tập Đình, Lý Tài ở ngoài biển; Bá Bích thành ở
Tây Sơn với hai tên đầu đảng Cha Pon, Cha Sót người Chiêm và Truông
Mây ở Phù Ly của cha Hồ, chú Nhẫn; chưa kể những tên cướp cạn ban
ngày thì hằng hà sa số. Trong tình hình điên đảo như vậy, chú Lía xuất hiện
như một hiệp sĩ cứu khốn phò nguy, thật đúng là điều thống khoái chẳng
khác nào kim bảng đề danh.
Nhắc lại chuyện Lía theo cụ Bạch học võ trên núi Trưng Sơn, thấm
thoắt mà đã bảy năm trôi qua. Bảy năm dùi mài tu luyện bằng tất cả lòng
ham học và căn cốt trời ban, Lía đã thụ đắc được hết sở học bình sinh của
cụ Bạch. Dường như quá mãn nguyện vì đã tìm được một truyền nhân xuất
sắc cho môn võ gia truyền của mình nên khi Lía thành tài cũng là lúc cụ
Bạch lìa trần. Lía thương tiếc vô cùng, lập mộ cho thầy ngay trước gian nhà
trúc. Sau đó chàng lần xuống chân núi bốc mộ của mẹ, mang hài cốt lên
chôn phía sau nhà cạnh dòng suối. Chàng ở lại chăm sóc hai ngôi mộ ba
tháng mới bái tạ xuống núi.
Người mà chàng tìm đến đầu tiên là Bưu, thằng bạn thân nhất ngày
xưa. Bảy năm không gặp, nay Lía đã trở thành chàng thanh niên cường
tráng với hai đuôi tóc tết xoắn dài quá mông khiến Bưu không thể nào nhận
ra, đứng trố mắt nhìn trân. Lía thấy Bưu không nhận ra mình thì cười ha hả
nói:
- Không nhận ra tao hả? Lía đây. Phú Lạc vương mà ngày xưa bọn bay
hay gọi đây.
Bưu sững người một lúc nữa rồi nhảy cẫng lên mừng rỡ:
- Lía! Trời ơi, đúng là mày rồi! Mày còn sống hả? Gặp lại mày tao
mừng quá. Lâu nay mày đi đâu sao không tìm tao?