lũ cuốn phăng đi. Qua hai lần đại họa, mọi thứ đều bị hủy diệt, chẳng còn
lại thứ gì.
Các trại di cư do Truông Mây dựng tạm để bà con nghèo trú thân đã bị lũ
tàn phá sạch. Cả mấy ngàn người đói rách giờ phải sống trơ trụi dưới trời
mưa gió. Lía buộc lòng phải sai anh em xuất lương thực dự trữ của nghĩa
quân để chia cho họ. Khi nước rút bớt, mấy ngàn nghĩa binh ra sức tái tạo
lại những căn nhà tạm để cho mọi người trong hai huyện có chỗ trú mưa. Ở
những nơi khác, tình cảnh tồi tệ chẳng kém gì. Chính quyền phủ Chúa vì lo
việc cứu trợ đồng bào bị thiên tai nên việc ra quân tảo phạt Truông Mây đã
tạm thời dẹp sang bên. Trần Lâm cho người mang một bức thư đến phủ
Quy Nhơn đề nghị tạm thời ngưng chiến trong ba tháng để dồn sức cứu
giúp đồng bào trước. Nguyễn Khắc Tuyên và Nguyễn Cửu Thống chấp
thuận rồi báo cáo về Phú Xuân.
Thiên tai qua đi, nạn đói kéo tới, dịch bệnh hoành hành. Đến đầu tháng
chạp năm đó, các nghĩa sĩ Truông Mây cũng đành nhắm mắt làm ngơ bỏ
mặc bá tánh vì họ đã không còn đủ sức để giúp đỡ nữa. Vừa may, có một
đoàn thuyền hai mươi chiếc từ Gia Định của nhóm Thần Quyền Môn và
Dương gia ở Mỹ Tho với sự hỗ trợ của bang Hành Khất đã cập bến An Dũ
và Đề Gi, mang theo hơn hai trăm tấn gạo ra cứu trợ. Lượng gạo này so với
số người đang bị đói thật chẳng thấm tháp vào đâu, nhưng dù sao có cháo
húp đỡ cho qua cơn đại nạn cũng đã là may mắn lắm rồi. Đoàn thuyền khi
trở về lại bốc thêm gần ngàn người vô gia cư nữa vào Nam. Trước khi nhổ
neo, Dương Quán Nhật nói với Trần Lâm và Lía:
- Các anh ráng giữ vững tinh thần bà con, chúng tôi sẽ gởi ra vài chuyến
gạo nữa để giúp các anh qua khỏi cơn hiểm nghèo này.
Trần Lâm cầm tay Quán Nhật cảm động nói:
- Tôi không biết làm sao để cảm ơn anh và Trần môn chủ, xin ghi lòng tạc
dạ vậy. Anh ra khơi may mắn. Mong những chuyến tàu kế tiếp của các anh.
Trong khi các đầu lĩnh và nghĩa binh Truông Mây đang bù đầu lo việc cứu
trợ và giúp bà con xây dựng lại nơi cư trú thì tại Truông Mây có một nghĩa
binh mang một bức thư đến trao cho Đại Hồng và nói: