“À ha!” chú nói trịnh trọng khi len qua đám đông ngoài cửa. “Đây một
đống nữa. Chà, nếu tên trộm cũng bất cẩn thế này trên suốt đường về nhà,
chúng ta hoàn toàn có thể tìm ra hắn là ai.”
Dấu vết ấy lần theo thật dễ. Cứ mỗi khoảng nhỏ lại có vài hạt lúa mạch
được rắc xuống, và Freddy bước từ từ băng qua khu chuồng trại, theo sau là
đám đông lũ súc vật đầy ngưỡng mộ.
“Cậu ấy tuyệt quá phải không?” Alice nói. “Chính chị cũng thấy lúa
mạch đấy, nhưng không bao giờ nghĩ ra được thế là có nghĩa gì.”
“Freddy đôi khi làm em nhớ cậu Wesley mình quá đi mất,” Emma nói.
“Cậu ấy nhìn ra mọi việc mới nhanh làm sao. Dĩ nhiên Freddy không có
được vẻ đường bệ, vẻ... vẻ chững chạc ấy.”
“Chà,” chị nó nói, “mong một con heo có được cũng khó lắm.”
Tuy nhiên, đường đi mà tên trộm dẫn dắt bắt đầu làm Freddy hoang
mang, rồi làm chú cảnh giác, bởi nó đi thẳng xuống chuồng heo.
Chuồng heo có hai ngăn: ngăn lớn mà Freddy gọi là phòng làm việc của
chú, và một ngăn nhỏ hơn ở phía sau được gọi là thư viện, trong đó chú cất
những món cải trang thừa, sổ kế toán cũ của nhà băng, và một bộ
Shakespeare Toàn tập. Có một cánh cửa nhỏ từ bên ngoài dẫn vào thư viện,
và ngay đằng trước là một nắm lúa mạch. Và chính tại đó Freddy đã phạm
sai lầm.
Thay vì mở cửa ra, chú dừng lại và quay về phía đám súc vật. “Kiểu này
là dấu vết che mắt rồi,” chú nói. “Dù kẻ ăn trộm lúa mạch có là ai đi chăng
nữa, kẻ ấy ắt phải đánh lạc hướng chúng ta, và rồi mang lúa mạch sang một
hướng khác. Tốt hơn là ta nên quay về và thử lần nữa.”
“Chà, tôi không biết à nha,” ngựa Hank nói. “Nếu một dấu vết dẫn tới
một cánh cửa, và cánh cửa ấy đóng, thì việc đương nhiên là phải mở nó ra,
đúng không? Tôi không biết, nhưng với tôi hình như là thế.”
“Xì!” Freddy nói. “Bọn trộm sẽ chẳng đi giấu những thứ chúng ăn cắp
ngay trong nhà riêng của thám tử làm gì, đúng chưa?”
“Có vẻ không phải thế,” chó Robert nói, “nếu vị thám tử ấy ngồi cả đêm
suy nghĩ. Vậy sao không mở cái cửa ra?”